– Người quản nội trưởng trên khu trục hạm HQ-4 (TN). – Hoàng Sa, Trường Sa- những bằng chứng lịch sử (VOV). – Triển lãm “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam – Những bằng chứng lịch sử” (ND). - Trí thức Việt nói về Hoàng Sa và chủ quyền đất nước (phần 1) (TN).- Trí thức Việt nói về Hoàng Sa và chủ quyền đất nước (phần 2) (TN). - Cô Quy sinh ra ở Hoàng Sa (TN). - Luôn mơ thấy ba về (TN). - Góa phụ Hoàng Sa (TN). - Gặp vợ cựu sĩ quan VNCH bỏ mình bảo vệ Hoàng Sa (Infonet). - Hà Nội triển lãm về Hoàng Sa, Trường Sa trong ba tháng (ĐV). - “Chúng ta không đòi mà phải thu hồi lại Hoàng Sa” (MTG). - GS Carl Thayer: “cần tổ chức hội thảo quốc tế về hải chiến Hoàng Sa“ (MTG).
(TNO) Vào ngày 19.1.1974, Trung Quốc
dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, khiến 74 chiến sĩ Quân
đội Việt Nam Cộng hòa (VNCH) hy sinh trong nỗ lực bảo vệ chủ quyền của
Việt Nam.[1]
Đảo Hoàng Sa thuộc cụm Lưỡi Liềm trong quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam
- Ảnh: Google Earth
- Ảnh: Google Earth
Trong 40 năm qua, có nhiều nghiên cứu,
bài phỏng vấn, bài viết về trận đánh ở Hoàng Sa nói riêng và về chủ
quyền Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam nói chung, nhìn từ các góc độ khác
nhau.[2]
Mục đích của bài viết này nhằm xét đến
quyền kế thừa lãnh thổ, trên đất liền và trên sông, biển, của nhà nước,
theo luật pháp quốc tế, ứng dụng vào chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa và
những tình huống khác nhau để có hành động thiết thực, bảo vệ hữu hiệu
quyền lợi Tổ quốc.
Vào đầu thập niên 1990, thế giới chứng
kiến sự thay đổi địa chính trị lớn lao ở châu Âu, ảnh hưởng đến ranh
giới lãnh thổ của nhiều nước trong khu vực như Đức, Liên Xô, Nam Tư,
Tiệp Khắc...
Cùng với tranh chấp lãnh thổ thường
xuyên xảy ra, sự thay đổi địa chính trị này góp phần gia tăng hiểu biết
về quyền kế thừa lãnh thổ, thông qua quyết định của Tòa án Quốc tế.
Quyền kế thừa lãnh thổ của nhà nước chia làm các trường hợp khác nhau:
1. Quyền kế thừa từng phần:
- Một phần lãnh thổ của nhà nước A trở thành lãnh thổ của nhà nước đang hiện hữu B như trường hợp tiểu bang Alaska của Mỹ.
- Một phần lãnh thổ của nhà nước A trở thành nhà nước mới B như trường hợp Liên Xô, Nam Tư, Tiệp Khắc.
2. Quyền kế thừa toàn bộ:
- Toàn bộ lãnh thổ của nhà nước A sáp nhập vào nhà nước đang hiện hữu B như trường hợp Đức.
- Toàn bộ lãnh thổ của nhà nước A sáp nhập vào nhà nước mới B như trường hợp Việt Nam, Yemen.
Nhà nước A hay B bao gồm một hay nhiều nhà nước riêng biệt.
Ghi nhận một số trường hợp về nhà nước kế thừa:
1. Trường hợp Cộng hòa Liên bang Nam Tư
(Serbia-Montenegro) (gọi tắt là Nam Tư) - sự kiện Liên Hiệp Quốc, trong
một thời gian, không thu nhận nước này làm thành viên, khiến quyết định
của Tòa án Quốc tế không đi sát với nguyên tắc thông thường, theo đó Nam
Tư là nhà nước kế thừa, được quốc tế công nhận.[3]
2. Trường hợp Cộng hòa Liên bang Đức -
khi Cộng hòa Dân chủ Đức ngưng hiện hữu năm 1990 và sáp nhập vào Cộng
hòa Liên bang Đức, Tòa án Quốc tế được xem là đã sử dụng nguyên tắc “kế
thừa tự nhiên” đối với Đức trong lãnh vực nhân đạo hay khi ứng dụng Công
ước Diệt chủng. Cả hai nhà nước là thành viên Liên Hiệp Quốc từ năm
1973.[4]
3. Trong giải quyết tranh chấp
Hungary-Slovakia về đập Gabcicovo-Nagymaros, Tòa án Quốc tế sử dụng
nguyên tắc kế thừa tự nhiên trên cơ sở Điều 12, Công ước Vienna năm
1978. Slovakia là nhà nước kế thừa, được quốc tế công nhận, của Tiệp
Khắc, và bị ràng buộc bởi Hiệp ước năm 1977 giữa hai nước. Tiệp Khắc,
Hungary và Slovakia là thành viên của Liên Hiệp Quốc lần lượt từ năm
1945, 1955 và 1993.[5]
Qua một nghiên cứu trước đây, người viết chứng minh hai sự kiện:
1. Trong giai đoạn 1954-1976, có hai nhà nước riêng biệt, cùng hiện hữu trên đất nước Việt Nam, ngăn cách bởi vĩ tuyến 17.
2. Cộng đồng thế giới nói chung, Trung Quốc, Liên Xô, và Mỹ nói riêng, công nhận thực tế này.[6]
Trước hành động dùng vũ lực của Trung
Quốc ở Hoàng Sa đầu năm 1974, vi phạm nghiêm trọng Điều 2, Khoản 4, Hiến
chương Liên Hiệp Quốc, hai chính thể ở phía Nam vĩ tuyến 17, Việt Nam
Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam lên tiếng phản đối trước quốc tế.
Khi đất nước thống nhất, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp tục hành xử chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa, kế thừa từ Nhà nước VNCH.[7]
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa nộp đơn gia nhập Liên Hiệp Quốc tháng 8 năm 1975. Mặc
dù ở Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, có 123 nước ủng hộ, không có nước
chống đơn gia nhập của Việt Nam, Mỹ dùng quyền phủ quyết trong Hội đồng
Bảo an Liên Hiệp Quốc để ngăn chặn.
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa chính thức sáp nhập thành Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam ở khóa họp đầu tiên của Quốc hội giữa năm 1976.
CHXHCN Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc tháng 9 năm 1977.
CHXHCN Việt Nam ra Tuyên bố, khẳng định lãnh hải, bao gồm quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, lần lượt vào năm 1977 và 1982.[8]
Quyết định của Tòa án Quốc tế về quyền
kế thừa của nhà nước và phương cách hành xử chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa
của Việt Nam trong giai đoạn chuyển tiếp, hình thành nhà nước mới, cho
thấy Nhà nước CHXHCN Việt Nam tuân thủ luật pháp quốc tế trong việc thụ
hưởng quyền thừa kế chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa từ các nhà nước, được
quốc tế công nhận, trước đấy.
Hai quyết định sau của Tòa án Quốc về
tranh chấp lãnh thổ cho thấy tình huống có thể xảy ra cho chủ quyền
Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam.
1. Trong giải quyết tranh chấp
Honduras-Nicaragua về bốn đảo nhỏ trong Biển Caribe, ngoài sự kiện không
có nước thứ ba công nhận một cách liên tục và nhất quán chủ quyền các
đảo này thuộc Honduras hay Nicaragua, Tòa án Quốc tế cho rằng sự liên
tục lên tiếng khẳng định chủ quyền của Nicaragua là không đầy đủ so với
phương cách hành xử chủ quyền của Honduras. Do đó, Tòa án Quốc tế trao
chủ quyền bốn đảo nhỏ cho Honduras.[9]
2. Trong giải quyết tranh chấp
Malaysia-Singapore về đảo Pedra Branca, Tòa án Quốc tế nhận định
Malaysia, không phải Singapore, là nước có chủ quyền ban đầu, nhưng
phương cách hành xử chủ quyền của Singapore ở thời điểm sau khiến Tòa án
Quốc tế trao chủ quyền đảo Pedra Branca cho Singapore. Quyết định này
phản ánh nguyên tắc “quieta non movere” hay “không làm xáo trộn sự ổn
định” mà Tòa án Quốc tế vẫn sử dụng.[10]
Khi nói về quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, lãnh đạo Nhà nước, trong vài năm qua, có những tuyên bố sau:
“Năm 1956, Trung Quốc đưa quân chiếm
đóng các đảo phía đông của quần đảo Hoàng Sa. Đến năm 1974, Trung Quốc
dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý hiện
tại của chính quyền Sài Gòn, tức chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Chính
quyền Sài Gòn đã lên tiếng phản đối, lên án việc làm này và đề nghị Liên
Hiệp Quốc can thiệp. Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam lúc
đó cũng đã ra tuyên bố phản đối hành vi chiếm đóng này.”(Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng, 2011)[11]
hay:
“Không nên nói rằng các vị lãnh đạo Việt
Nam chỉ bảo vệ chủ quyền bằng nói miệng. Nói vậy cực đoan quá... Chủ
trương của ta là mọi tranh chấp phải được giải quyết bằng biện pháp hòa
bình, dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế. Có thể nước lớn phớt lờ luật
pháp quốc tế vì họ mạnh. Nhưng chúng ta không bao giờ và không được từ
bỏ công cụ là luật pháp quốc tế."(Chủ tịch nước Trương Tấn Sang,
2013)[12]
Các tuyên bố như trên phản ánh đúng đắn sự thật lịch sử, phản ánh quyết tâm của lãnh đạo trong nỗ lực bảo vệ quyền lợi đất nước.
So với Trung Quốc hay so với một nước
nào khác trong tranh chấp trên biển Đông, Việt Nam có chứng cứ lịch sử
và cơ sở pháp lý về chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa mạnh mẽ, rõ ràng, vững
chắc.
Đây là thuận lợi có giá trị vô cùng to lớn mà tiền nhân đã để lại cho thế hệ ngày nay.
Tuy nhiên, các quyết định của Tòa án
Quốc tế trong giải quyết tranh chấp cho thấy thuận lợi về chủ quyền lãnh
thổ của một nước không ở lâu dài với nước đấy.
Bên cạnh ngụy tạo chứng cứ lịch sử về
chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa để đánh lừa dư luận trong và ngoài nước,
Trung Quốc nghiên cứu kỹ lưỡng quyết định của Tòa án Quốc tế, nhận thức
rõ điểm yếu trong đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc và tích cực tìm cách
khắc phục.[13]
Trung Quốc thừa hiểu kéo dài thời gian
giải quyết tranh chấp Hoàng Sa-Trường Sa trong khi tiếp tục “hành xử”
chủ quyền có yếu tố quyết định, hoàn toàn thuận lợi cho Trung Quốc ở Tòa
án Quốc tế, như đã dẫn chứng trong tranh chấp giữa Honduras-Nicaragua
hay giữa Malaysia-Singapore.[14]
Nói một cách khác, Việt Nam đang đối
diện với thuận lợi về mặt lịch sử và pháp lý cho chủ quyền Hoàng
Sa-Trường Sa ngày càng giảm thiểu, thu nhỏ; cán cân thăng bằng trong
thuận lợi sẽ chuyển hướng, hậu quả của một chiến lược kiên trì, tinh vi
và xảo quyệt của Trung Quốc, nhằm chiếm giữ vĩnh viễn Hoàng Sa-Trường Sa
của Việt Nam.
Việt Nam vừa nhận chiếc tàu ngầm tối tân
đầu tiên từ Nga. Trong khi hiện đại hóa quân đội là bước không thể
thiếu để gia tăng phòng vệ, là nước yêu chuộng hòa bình, Việt Nam nên
nghiêm túc sử dụng công cụ luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp
Hoàng Sa-Trường Sa trong thời gian tới.
Chọn lựa dứt khoát, mạnh dạn của Việt
Nam, biến quyết tâm hiện có về Hoàng Sa-Trường Sa thành hành động cụ thể
là nghĩa vụ, là trách nhiệm phải hoàn thành của mỗi và mọi người Việt
Nam trước lịch sử, trước gương hy sinh của các thế hệ đã qua, trước sự
mong đợi của các thế hệ sắp đến, trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Thái Văn Cầu
* Tác giả là chuyên gia khoa học không gian, hiện sống tại Mỹ
* Tác giả là chuyên gia khoa học không gian, hiện sống tại Mỹ