40 năm Hoàng Sa bị tạm chiếm: Nỗi đau và lòng yêu nước
ANTĐ
- Thế là đã 40 năm, một phần da thịt nước ta đã lưu lạc nơi kẻ ngoại,
40 năm Hoàng Sa và sau này một phần Trường Sa đã trở thành nỗi đau nhức
nhối trong tâm can mỗi người dân Việt. Nơi ấy có xương máu cha ông nghìn
năm nằm lại, nơi ấy, trong mỗi trang sử suốt dọc chiều dài dựng nước và
giữ nước đều ghi rõ là phên dậu trước biển của dân Việt. Vậy mà 40 năm,
sau trận hải chiến do những kẻ xâm lấn, một phần biển đảo của chúng ta
đã bị tạm chiếm, tấm phên dậu hở hang đã làm mất ngủ bao đêm của những
thức giả.
Vào những ngày đầu năm 1974, lợi dụng
chúng ta đang bận rộn trong cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, thế lực
bành trướng đã đem quân tấn công quần đảo Hoàng Sa. Với lực lượng vượt
trội, chúng đã chiếm quần đảo. 74 chiến sĩ Việt Nam đã hy sinh trong
trận chiến anh dũng này.
Còn nhớ, chỉ sau ngày Hoàng Sa bị chiếm
đóng có 5 năm, trong cuộc chiến phía Bắc, đứng ở bên này cầu Khánh Khê,
chiến sĩ Phạm Văn Hoàng binh nhất thuộc Trung đoàn Tây Sơn chỉ sang bên
kia đồi: Không đuổi được những kẻ xâm lược ra khỏi đất nước tôi sẽ không
về Hà Nội nữa. Anh đã góp phần đuổi giặc ra khỏi biên cương nhưng anh
vẫn không về, anh nằm lại sau một cuộc chiến và để lại thân thể cũng như
linh hồn trấn giữ ải Bắc. Với những Anh hùng giữ đảo Hoàng Sa và sau
này những Anh hùng hy sinh giữ đảo Trường Sa, tôi cũng nghĩ như vậy. Thể
xác và linh hồn họ đã ở lại đó, trở thành những thổ công thổ địa không
để cho những kẻ tạm chiếm yên ổn một phút, một giây. Những linh hồn họ
cũng nhắc nhở những người sống món nợ lịch sử, món nợ tổ tông khi một
phần đất nước chưa được thu hồi về một mối.
Thật sự, chúng ta, từ trẻ nhỏ đến người
già, từ người dân bình thường đến các nhà lãnh đạo mọi thời kỳ, không ai
quên Hoàng Sa, Trường Sa. Có thể thế và lực cũng như những thời cơ chưa
đến để chúng ta thu hồi một phần biển đảo về quê hương, nhưng mãi mãi
Hoàng Sa và Trường Sa vẫn là một phần đất nước, một phần máu thịt trong
mỗi người dân Việt. Nhưng để trả món nợ lịch sử này còn quá nhiều việc
để làm. Những con tàu, những cỗ máy chiến tranh dẫu có hiện đại đến đâu
cũng không đủ cho mọi cuộc chiến giải phóng và giữ nước, nếu không có
nhân dân đồng lòng và một bộ chỉ huy sáng suốt, quyết chiến vì tổ quốc,
vì nhân dân.
Chúng ta cần nhận rõ âm mưu xâm chiếm
của những kẻ đang tạm chiếm một phần da thịt đất nước. Họ không dễ dàng
từ bỏ những gì đã dùng vũ lực cưỡng chiếm được. Vì vậy chúng ta vừa phải
kiên trì vừa phải kiên quyết, không lùi bước dẫu là nửa phân, dẫu trên
chiến trường hay trên bàn đàm phán. Nhận rõ bản chất của những kẻ tạm
chiếm, biết rõ âm mưu của họ là tiền đề thắng lợi.
Nhưng lớn hơn, và quyết định hơn đó là
phải có một chiến lược bồi dưỡng sức dân. Bồi dưỡng lòng yêu nước, lòng
quyết tâm trả nợ tổ tông thu hồi từng tấc đất Tổ quốc, bồi dưỡng sức
mạnh nhân dân bằng sự phát triển kinh tế với những chính sách an sinh xã
hội trong một xã hội pháp quyền. Hiến pháp mới với những tiến bộ nhất
định là một cơ hội để Đảng và Nhà nước thực hiện những chính sách mới
bồi dưỡng sức dân. Hãy khơi dậy trong mỗi trái tim lòng yêu nước mình,
trách nhiệm với lịch sử mình, với những người đi trước.
Hãy vinh danh những người con yêu nước
Việt đã hy sinh để bảo vệ đất nước, hãy ghi nhớ ngày chúng ta như rụng
mất bàn tay, như mất một phần thân thể. Ghi nhớ món nợ này, để tìm cách
trả nợ non sông. Hãy như binh nhất Phạm Văn Hoàng, năm 1979 bên cầu
Khánh Khê biên giới phía Bắc: Không thu hồi Hoàng Sa và một phần Trường
Sa không thể sống bình thường.
Trần Việt
Nguồn An ninh Thủ đô
Nguồn An ninh Thủ đô
Hoàng Sa - thiên đường của chúng ta đã mất!
MTG - Ngày 11.12.2006, lần đầu tiên,
chính quyền Đà Nẵng mở kho tư liệu Hoàng Sa và mời những người từng sinh
sống và làm việc ở Hoàng Sa đến gặp mặt và tham quan. Hàng năm, Sở Nội
vụ và huyện đảo Hoàng Sa đều tổ chức gặp gỡ những nhân chứng này. Các
nhân chứng trong bài viết nay có người còn, người mất. Đây là chứng cứ
chân thật nhất về một thời Hoàng Sa.
“Sáng đó (20.1.1974), chúng tôi dậy tập
thể dục. Mặt trời lên rất đẹp. Bất ngờ một người nhìn thấy ngoài khơi có
rất nhiều tàu bao vây quanh đảo. Mọi người vội vàng chạy vào lấy ống
nhòm ra nhìn và biết đó là tàu của Trung Quốc” – ông Tạ Hồng Tân, một
trong những người Việt Nam cuối cùng rời khỏi Hoàng Sa nhớ lại như vậy.
Bị Trung Quốc bắt làm tù binh
Đó là một ngày không quên trong đời ông
Tân. Năm 2006, ông Tân 73 tuổi sống bằng nghề dạy kèm tiếng Anh, tiếng
Pháp tại phường An Hải Đông thành phố Đà Nẵng.
Nhân chứng Tạ Hồng Tân (ảnh chụp năm 2006), người bị Trung Quốc bắt làm tù binh sau trận hải chiến Hoàng Sa 1974.
Ông là người gốc sài Gòn, làm nhân viên
quan trắc cho Đài khí tượng Sài Gòn, được điều ra Trung tâm khí tượng Đà
Nẵng làm quan trắc viên Trạm khí tượng Hoàng Sa cuối năm 1973 cho đến
ngày bị Trung Quốc bắt làm tù binh.
Khi đó, trên đảo có một trung đội Địa
phương quân thuộc Đại đội 157, địa phương quân Đà Nẵng của chế độ Sài
Gòn và 6 nhân viên thuộc Trạm khí tượng Hoàng Sa.
Ông Tân kể: “Thấy tàu chiến nhiều quá
chúng tôi rất lo âu. Nhân viên vô tuyến của trạm liên lạc về Đài khí
tượng Đà Nẵng cầu cứu. Kêu thì kêu vậy nhưng biết không làm gì được vì
lực lượng bên đó quá đông!”.
Từ sáng sớm đến hết cả ngày 20.1.1974,
tàu chiến Trung Quốc án binh bất động. Lúc đó, đã xảy ra hải chiến ngoài
khơi, ở các đảo xung quanh, nhưng những nhân viên khí tượng này không
biết. Khoảng 5 giờ chiều, sau một đợt pháo kích, Trung Quốc cho quân đổ
bộ vào đảo bắt sống toàn bộ trung đội Địa phương quân và 6 nhân viên khí
tượng, trong đó có ông Tạ Hồng Tân.
“Họ đưa chúng tôi lên tàu về đảo Hải Nam
ngày hôm sau. Chúng tôi được chuyển lên xe bịt bùng về giam ở đâu không
biết!” – ông Tân kể.
Hai chiếc vỏ ốc này là kỷ vật của nhân chứng Phạm Khôi. Nay hai vỏ ốc này đã được tặng cho Kho tư liệu Hoàng S.
Chúng tôi xác định được nhà giam ông Tân
cũng như các binh lính khác là nhà lao Thu Dung thuộc tỉnh Quảng Châu.
Vào nhà giam, mọi người bị lấy lời khai nhưng được đối xử tử tế.
Khoảng gần 3 tuần sau, ông Tân nói có
một cán bộ Trung Quốc tới trại, đem theo người phiên dịch nói cho chúng
tôi biết: “Hoàng Sa là đảo của Trung Quốc nhưng Việt Nam chiếm làm đài
Khí tượng. Nay Trung Quốc lấy lại và các anh sẽ được trả tự do trong vài
ngày tới”. Khoảng gần 1 tuần sau, ông Tân cùng toàn bộ tù binh bị Trung
Quốc bắt đưa qua Hồng Kông.
Chính quyền Sài Gòn điều một chiếc máy
bay C130 sang Hồng Kông nhận trao trả tù binh. Phần lớn số tù binh sau
đó về lại nơi làm việc ở Đà Nẵng.
Tiễn chúng tôi ra về tới cửa, ông Tân
còn nheo nheo mắt hỏi: “Không biết bây giờ tên của tôi có còn ngoài
Hoàng Sa không?”. Một câu hỏi thật khó trả lời.
Tất cả những binh sĩ chế độ Sài Gòn và
nhân viên khí tượng khi đến Hoàng Sa, những giờ rảnh rỗi họ ra những
tảng đá ven biển khắc họ tên và địa chỉ mình lên đó làm kỷ niệm. Khi
ông Tân ra thì đã thấy lớp lâu lớp mới tên người Việt Nam trên đá, ở
những vị trí tuyệt đẹp.
Thiên đường đã mất
Một trong những người từng làm việc lâu
đời ở Hoàng Sa tại Đà Nẵng là ông Nguyễn Tấn Phát, nhân viên quan trắc
Đài khí tượng Sài Gòn.
Đầu năm 1958, ông Phát được điều theo
dạng luôn phiên ra Đà Nẵng rồi đi Hoàng Sa. Đó là một thời kỳ đẹp đẽ
nhất trong đời của một chàng trai Sài Gòn.
Nhân chứng Nguyễn Tấn Phát (ảnh chụp
năm 2006). Đây là người đã nói: "Tôi đã để một phần đời của tôi ở lại
Hoàng Sa". Phần đời còn lại của ông là nỗi hoài nhớ về Hoàng Sa, nơi
mình đã từng sống.
Ông nói: “Mỗi nhân viên chỉ đi Hoàng Sa
luân phiên 3 tháng, mỗi lần đi có 6 người gồm 4 quan trắc viên, 1 nhân
viên vô tuyến và 1 nhân viên phục vụ lo thổi bóng hơi quan trắc cao
không đo gió kiêm hậu cần. Tôi lúc đó mới 23 tuổi, chưa lập gia đình,
thấy cảnh sắc thần tiên nên mê và xin ở lại luôn cả nửa năm”.
Nửa năm sống trên đảo trong ký ức của
ông Phát bây giờ là nửa năm làm Từ Thức!. Công việc quan trắc cũng khá
nhẹ nhàng, chủ yếu vài thời điểm trong ngày. Thời gian còn lại ông cùng
những đồng nghiệp mình ngao du khắp đảo Hoàng Sa.
Lâu lâu, ông kể là đi theo xuồng máy của
đơn vị Thủy quân lục chiến chế độ Sài Gòn đi thăm các đảo có chim sinh
sống. Đó là những bãi cát vàng rực trong ánh chiều tà. Chân chúng tôi
len lỏi giữa những ổ trứng chim. Chim nhiều vô kể, chúng không hề sợ hãi
khi thấy người tới gần.
Bình minh trên quần đảo Hoàng Sa là thời
khắc huy hoàng nhất trong ngày. “Chúng tôi thấy mặt trời đỏ rực, to và
rất gần. Nắng lên một chút, nước biển ven bờ xanh một màu ngọc bích đẹp
lạ lùng, xa xa hơn một chút nữa màu xanh dương rồi tới xanh lục. Chiều
chiều rảnh rỗi chúng tôi bơi ra xa lặn xuống xem những rạn san hô với cá
đủ màu sắc...” – ông Phát kể như vậy.
Nhân chứng Võ Như Dân (ảnh chụp năm 2006). Ông Dân là người có thời gian sống và làm việc lâu nhất ở Hoàng Sa: 3 năm rưỡi!
Đặc biệt nhất tại Hoàng Sa là cá. Cá
nhiều vô kể, nhất là cá mú. Lính đảo cùng các nhân viên khí tượng sống
nhờ nguồn thực phẩm khá dồi dào tại Hoàng Sa. Cá, ốc, mực, bạch tuộc,
chim...
“Chỉ cần quăng câu chừng vài phút là
được gần cả chục con cá mú, cá khế, cá xanh xương... Con nào con đó nặng
trên 5 – 7 ký” – đó là ký ức của ông Võ Như Dân, người ở Hoàng Sa nhiều
nhất.
Ông Dân làm nhân viên hậu cần cho Trạm
khí tượng Hoàng Sa từ năm 1956. Đội hậu cần thời đó chỉ có 3 người luân
phiên nhau ra Hoàng Sa.
Chính vì vậy, cho đến ngày Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc năm 1974, ông Dân có 14 chuyến ra Hoàng Sa, mỗi chuyến 3 tháng, tổng cộng là 3 năm rưỡi sinh sống trên đảo. Cảnh sắc quen thuộc thân thương quá đỗi đến mức ông bảo: “Hôm qua tôi xuống Sở Nội vụ TP Đà Nẵng, nơi có kho tư liệu và hành ảnh về Hoàng Sa, tối về tôi nằm mường tượng nó ở trước mặt tôi. Cả phần đời tôi đã ở đó...”.
Nhiệm vụ là hậu cần nên suốt ngày ông Dân đi câu cá phục vụ thức ăn cho toàn đội. Đồ hộp cũng nhiều nhưng không ai ăn. Khu nhà khí tượng do Pháp xây trên đảo có những hầm chứa nước mưa dùng uống quanh năm.
Chính vì vậy, cho đến ngày Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc năm 1974, ông Dân có 14 chuyến ra Hoàng Sa, mỗi chuyến 3 tháng, tổng cộng là 3 năm rưỡi sinh sống trên đảo. Cảnh sắc quen thuộc thân thương quá đỗi đến mức ông bảo: “Hôm qua tôi xuống Sở Nội vụ TP Đà Nẵng, nơi có kho tư liệu và hành ảnh về Hoàng Sa, tối về tôi nằm mường tượng nó ở trước mặt tôi. Cả phần đời tôi đã ở đó...”.
Nhiệm vụ là hậu cần nên suốt ngày ông Dân đi câu cá phục vụ thức ăn cho toàn đội. Đồ hộp cũng nhiều nhưng không ai ăn. Khu nhà khí tượng do Pháp xây trên đảo có những hầm chứa nước mưa dùng uống quanh năm.
Khoảng năm 1958, có lần một đoàn tàu
Trung Quốc đến gần nhưng bị Thủy quân lục chiến chế độ Sài Gòn bắn dọa
đuổi đi. Tàu cá của Nhật cũng có tới xin nước ngọt. Họ không biết tiếng
Việt nhưng ra dấu xin lên đảo lấy nước rồi cúi đầu cảm tạ...
Bao nhiêu kỷ niệm còn sống trong lòng những người đã từng ở Hoàng Sa. Ông Phạm Khôi, nguyên là lính địa phương quân Việt Nam cộng hòa, hiện sống ở Đà Nẵng mở tủ lấy ra hai chiếc vỏ ốc hoa còn khắc ngày ông đặt chân lên Hoàng Sa: 23 tháng chạp năm 1969. Đó là hai chiếc vỏ ốc ông mang về và trở thành báu vật của đời ông!
Bao nhiêu kỷ niệm còn sống trong lòng những người đã từng ở Hoàng Sa. Ông Phạm Khôi, nguyên là lính địa phương quân Việt Nam cộng hòa, hiện sống ở Đà Nẵng mở tủ lấy ra hai chiếc vỏ ốc hoa còn khắc ngày ông đặt chân lên Hoàng Sa: 23 tháng chạp năm 1969. Đó là hai chiếc vỏ ốc ông mang về và trở thành báu vật của đời ông!
Huyện đảo Hoàng Sa
Được thành lập từ tháng 01.1997, là một quần đảo san hô nằm cách thành phố Đà Nẵng 170 hải lý (khoảng 315 km).
Huyện bao gồm các đảo: đảo Hoàng Sa,
đảo Đá Bắc, đảo Hữu Nhật, đảo Đá Lồi, đảo Bạch Quy, đảo Tri Tôn, Đảo
Cây, đảo Bắc, đảo Giữa, đảo Nam, đảo Phú Lâm, đảo Linh Côn, đảo Quang
Hòa, Cồn Bông Bay, Cồn Quan Sát, Cồn Cát Tây, Đá Chim Yến, Đá Tháp.
Huyện Hoàng Sa có diện tích: 305 km2, chiếm 23,76% diện tích thành phố Đà Nẵng.
Ngày 21.4.2009, Chủ tịch UBND thành
phố Đà Nẵng Trần Văn Minh ký quyết định bổ nhiệm ông Đặng Công Ngữ làm
chủ tịch UBND huyện đảo Hoàng Sa trong nhiệm kỳ 2009-2014.
Cổng TTĐT thành phố Đà Nẵng
Minh Sơn
Nguồn TGM
Nguồn TGM