Cứ mỗi lần Tết đến, lòng tôi lại trào dâng một nỗi nhớ nhung khôn tả. Nhớ về quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Nhớ về những kỉ niệm tuổi thơ gắn với ngày Tết cổ truyền của dân tộc. Những kỷ niệm ấy thật đậm chất dân dã.
Tết quê ngày ấy, cũng đã xa lắm rồi, thời còn đan xen những năm tháng chiến tranh và hòa bình. Những cái Tết bình dị nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong kí ức tuổi thơ của tôi.
Ở quê, cữ tháng mười một ta, tiết trời bắt đầu rét. Vụ mùa đã thu hoạch xong. Ngoài đồng ruộng chỉ còn trơ những gốc rạ. Chỉ có bọn trẻ chăn bò và thỉnh thoảng có những người đi bắt ốc, mò cua nơi bờ ruộng.
Bãi mía đã đến mùa thu hoạch. Che kẹo mía đã dựng lên ở nhà kho hợp tác. Những chảo mật sôi sùng sục tỏa mùi thơm ngào ngạt khắp làng trên xóm dưới. Bã mía phơi đầy dọc bờ đê. Mùa nấu mật cũng là mùa hái đậu ve. Những trái đậu ve nầy nẫy, hạt to tròn, trắng bóc. Trẻ con đi cắt cỏ hoặc chăn bò, chiều về thế nào trong túi áo cũng đầy những đậu hái trộm được ở ngoài bãi. Chúng kiếm những que nứa chẻ nhỏ, xâu thành từng xâu, nhúng vào chảo mật đang sôi, thế là được một món “kẹo” đặc sản chẳng nơi nào có, và có lẽ bây giờ về quê có bói cũng không ra.
Ở những góc khuất đường làng và trong những gian nhà kho bỏ trống, bọn trẻ bắt đầu trò chơi đánh đáo ăn tiền.
Đó là những dấu hiệu cho hay Tết đang dần đến.
Tết ở quê tôi không có hội. Các cụ bảo ngày xưa thì có đấy. Nhưng bây giờ đình chùa phá hết cả rồi, gạch thì để xây trụ sở hợp tác xã, gỗ thì làm hầm chữ A tránh bom đạn Mỹ, có muốn hội thì cũng chẳng biết tổ chức ở đâu. Năm nảo cũng như năm nào, chỉ thấy mấy trò dân dã đánh đu, cờ người, cờ thẻ, xôm nữa thì diễn tích tuồng xưa như Trưng Trắc, Trưng Nhị. Một lần xem vở diễn ở sân kho, cứ nhớ mãi cái chi tiết bố tôi trong vai hề cùng ông Chung Hân, kéo cái quần lụa thùng thình mà vỗ đùi đánh “đét” một cái rồi ca : “Nghĩ đùi mà ngán cho đùi, chơ đùi người ta thì trắng, còn đùi mình thì đen thụi thùi thui !” Mới đó mà các cụ diễn viên nông dân ngày ấy, có người đã thành thiên cổ rồi.
Tết đối với bọn trẻ, mong chờ ngóng đợi không chỉ để được ăn ngon, mặc đẹp mà còn được chơi đáo thỏa thích.
Ngày ấy, đồng tiền còn có giá. Người ta chi tiêu hàng ngày tính bằng xu, bằng hào. Cho nên, mỗi ván đáo người chơi chung vào cũng chỉ tính bằng xu. Chơi ván 5 xu là oách lắm rồi. Nhưng trẻ con ở thôn quê kiếm đâu ra tiền. Thế mà lại có cách đấy : kiếm những đồng tiền cổ làm vật trao đổi mua bán. Ngày ấy, tiền cổ không hiểu ở đâu ra mà nhiều thế. Có khi cuốc xới ngoài vườn cũng nhặt được tiền. Mẹ tôi bảo đấy là vì đất của địa chủ ngày xưa, tiền do họ cất giấu hồi cải cách còn sót lại.
Tôi thuộc hạng kém cỏi, có khi chơi cả ngày, chẳng lời được xu nào mà mấy hào lì xì tích cóp được cũng bay vèo. Xóm tôi có mấy tay chơi có hạng như anh em Đường Trường, Mai Ới, … Con xu nằm ở vị trí hiểm hóc nào cũng xoáy chì vào ăn cho bằng được. Thật là điệu nghệ ! Nghề chơi cũng lắm công phu. Có người còn trau nghề đến nỗi, đặt thợ rèn rèn cho một con chì cái thật độc đáo, mỗi lần cắm vào đất dính như nhựa hoặc ném biều cứ như là có phép màu. Thấy mà mê.
Ôi ! Tết quê của một thời thơ ấu, bình dị biết bao. Cho dù là cái trò chơi ăn tiền nhưng sao vẫn thấy vô tư, cái vô tư của con trẻ chứ không phải máu me, sát phạt theo kiểu cờ bạc như bây giờ. Ra giêng, hết Tết, chẳng còn ai chơi nữa. Lại đợi đến một cái tết sang năm.
Với tôi, chẳng bao giờ còn thấy được những cái Tết như thế nữa.
Lúc này, đã 12 giờ đêm, nồi bánh chưng nhà tôi đang sôi sùng sục. Đấy là cái hương vị mà tôi cố níu giữ để các con tôi giữa bộn bề cuộc sống thời hiện đại còn hình dung được, Tết là thế đấy.
Buôn Ma Thuột, 28 tháng Chạp năm Canh Dần
Nguyễn Duy Xuân