Trang chủ

     

Thứ Sáu, 15 tháng 1, 2010

NGUYỄN TRUNG NGẠN

NGUYỄN TRUNG NGẠN

     Nguyễn Trung Ngạn (chữ Hán: 阮忠彥) sinh năm Kỷ Sửu 1289 (có tài liệu ghi là năm Canh Dần 1280), tự là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi (nay là Ân Thi), tỉnh Hưng Yên.
     Ông đỗ Hoàng giáp năm Giáp Thìn 1304 khi mới 16 tuổi.
     Năm 1312, Nguyễn Trung Ngạn giữ chức gián quan (một chức quan trong Ngự sử đài).
     Năm 1314, khi vua Minh Tông lên nối ngôi, ông cùng Phạm Ngộ sang nhà Nguyên báo tin và dâng cống.
     Năm Tân Dậu, Đại Khánh thứ 8 (1321), Nguyễn Trung Ngạn là Ngự sử đài Thị ngự sử. Sau do bàn bạc không hợp ý vua, ông bị giáng xuống làm Thông phán châu Anh Lãng rồi lại nhờ có tài trong việc cai quản ở nơi trị nhậm mà được điều về kinh giữ chức Thiêm tri Thánh Từ cung sự quản lý mọi việc ở cung Thánh Từ, tức cung của Thái thượng hoàng.
     Năm 1326, do sai sót trong việc ghi chép quan phục của quan lại, Nguyễn Trung Ngạn lại bị điều ra làm An phủ sứ Thanh Hoá.
     Năm 1329, Nguyễn Trung Ngạn theo Thượng hoàng Minh Tông đi đánh dẹp ở Đà Giang và phụng mệnh soạn sách Thực lục.
     Năm Nhâm Thân 1332, Nguyễn Trung Ngạn được thăng Nội mật viện phó sứ, giữ sổ sách ở nội sảnh cung Quan Triều (cung của vua Trần), nhưng vẫn kiêm An phủ sứ Thanh Hoá.
Năm Giáp Tuất 1334, ông theo Thượng hoàng đi đánh giặc Ai Lao. Ai Lao trốn chạy, ông vâng mệnh ghi công ở bia Ma Nhai rồi về.
     Năm Đinh Sửu 1337, làm An phủ sứ Nghệ An rồi Giám tu Quốc sử viện. Ông cùng Trương Hán Siêu soạn sách Hoàng triều đại điển và bộ luật Hình thư.
     Năm Tân Tỵ 1341, Nguyễn Trung Ngạn được giao giữ chức Kinh sư Đại doãn trông coi mọi việc ở kinh thành (tương đương với Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội ngày nay)
     Năm 1342, được thăng lên làm Hành khiển coi việc ở viện Khu mật. Năm 1355, được thăng Kinh lược sứ trấn Lạng Giang, Đại hành khiển, Thượng thư Hữu bật, Đại học sĩ, hầu ở toà Kinh Duyên, Trụ Quốc, Khai huyện bá rồi Thân Quốc công. Năm Canh Tuất 1370, ông mất thọ hơn 80 tuổi.
     Ông là một nhà chính trị, một đại thần có tài, được xếp vào hàng "Người phò tá có công lao tài đức đời Trần", cùng với Trần Quang Khải, Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Đoàn Nhữ Hài, Trần Thì Kiến, Phạm Tông Mại, Trần Nguyên Đán.

QUI HỨNG

Lão tang diệp lạc tàm phương tận,
Tảo đạo hoa hương giải chính phì,
Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo,
Giang nam tuy lạc bất như qui.

Dịch nghĩa:

Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm nở hoa thơm, cua đang lúc béo ghê
Nghe nói ở nhà dẫu nghèo vẫn tốt
Đất Giang Nam tuy vui, cũng chẳng bằng về nhà.

Dịch thơ:

HỨNG MUỐN TRỞ VỀ

Dâu già lá rụng, tằm vừa chín
Lúa sớm bông thơm, cua béo ghê
Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt
Dẫu vui đất khách chẳng bằng về.
NDX tổng hợp