Địa lý
Huyện nằm ở hạ lưu sông Lam. Kéo dài từ 18o 34’ đến 18o 47’ vĩ bắc và trải rộng từ 105o 24’ đến 105o 37’ kinh đông. Diện tích 295,2 km2, trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm 48%, còn nữa là đất lâm nghiệp và đồi núi, ao hồ. Dân số 159.433
Huyện Nam Đàn, đông giáp huyện Hưng Nguyên và huyện Nghi Lộc, tây giáp huyện Thanh Chương, bắc giáp huyện Đô Lương, nam giáp huyện Hương Sơn và huyện Đức Thọ thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Huyện lỵ của Nam Đàn đóng ở Thị trấn Nam Đàn, trên đường quốc lộ 46 Vinh – Đô Lương, cách Thành phố Vinh 21 km về phía tây.
Hành chínhToàn huyện bao gồm 24 Xã, Thị trấn:
Thị trấn Nam Đàn
Xã Nam Giang Xã Hùng Tiến
Xã Nam Cát Xã Kim Liên
Xã Xuân Lâm Xã Hồng Long
Xã Nam Lĩnh Xã Xuân Hòa
Xã Vân Diên Xã Nam Kim
Xã Khánh Sơn Xã Nam Thái
Xã Nam Anh Xã Nam Thanh
Xã Nam Lộc Xã Nam Thượng
Xã Nam Hưng Xã Nam Trung
Xã Nam Phúc Xã Nam Nghĩa
Xã Nam Xuân Xã Nam Cường
Xã Nam Tân
Khí hậu
Thời tiết và khí hậu của huyện Nam Đàn tương đối khắc nghiệt. Hằng năm mùa hanh khô kéo dài từ tháng 1 đến tháng 3 dương lịch, mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12. Lượng mưa hàng năm cao nhất là 2,228 mm, thấp nhất là 1,402 mm, trung bình là 1,428 mm. Bão lụt thường xảy ra vào tháng 9 và tháng 10 dương lịch, gây úng lụt trên diện tích rộng, có lúc kéo dài trong một thời gian dài.
Thời tiết và khí hậu của huyện Nam Đàn đã được miêu tả tóm tắt và khá đúng trong 4 câu thơ chữ Hán sau đây của Hoàng giáp Bùi Huy Bích (1744 – 1818) ghi trong Nghệ An thi tập của ông khi ông làm Đốc đồng trấn Nghệ An (1777 – 1781) dưới thời vua Lê Hiển Tông:
Hạ lai phong tự hỏa Thu khứ vũ như ma
Thập nguyệt giang hoàn lạo
Trùng cửu cúc vị hoa
Dịch thơ:
Hè đến gió Lào như lửa đốt
Thu qua mưa phùn lấm tấm sa
Tháng mười sông còn tràn nước lũ
Mồng 9 tháng 9 cúc chưa nở hoa
Thắng cảnh
Trong các thắng cảnh ở Nam Đàn có núi Đại Huệ. Phong cảnh ở đây đã được Bùi Huy Bích ghi lại khi thăm chùa Đại Tuệ trên núi:
Đá nhỏ xếp vòng tới đỉnh cao Đất trời vời vợi dạ nao nao
Trời dăng rặng núi như xoè cánh
Đất nắn dòng sông giống uốn câu
Đường núi xuyên cây, sư khinh hổ
Roi tre gánh cỏ, trẻ lùa trâu
Rất yêu Giếng đá luôn đầy nước
Sâu chỉ bằng lu múc hết đâu
Núi Đại Huệ
Một thắng cảnh khác là núi Thiên Nhẫn, nơi còn lưu lại bài thơ của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp:
Chiu chít liền những núi, Trông như ngựa chạy vòng
Miền nam mờ ngọn núi,
Cõi bắc uốn khúc sông.
Bóng chùa Thiên Nhẫn ánh
Suối vọt Lục Niên kề
Tùng cúc nay còn đó
Phong trần vẫn chưa về...
Dãy Thiên Nhẫn
Ở Nam Đàn cũng có nhiều chùa. Kiến trúc chùa Nam Đàn đã lưu lại trong câu ca:
Thứ nhất Nghi môn Tam Tanh Thứ nhì là cảnh Yên Quỳnh
Thứ ba là đình Nam Hoa
Nghi môn Tam Tanh nay là đền vua Bà ở xã Hùng Tiến đã bị thời gian tàn huỷ, nhưng vẫn giữ một số giá trị kiến trúc và nghệ thuật. Đình Nam Hoa là 4 ngôi đình nổi tiếng của 4 làng phía hữu ngạn sông Lam gồm: đình Dương Liễu, đình Đông Sơn, đình Hoành Sơn, đình Trung Cần; trong đó đình Hoành Sơn (thuộc xã Khánh Sơn) và đình Trung Cần (thuộc xã Nam Trung) đã được Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam cấp bằng Di tích Lịch sử Văn hóa Quốc gia Việt Nam. Hai đình này đều bằng gỗ, được giới chuyên môn liệt vào bậc nhất trong hệ thống chùa chiền còn ở miền Trung. Tại xã Hồng Long còn lưu giữ phế tích Tháp Nhãn có từ thế kỷ thứ VII, xây toàn bằng đất nung với kỹ thuật lắp ghép độc đáo.
Đình Hoành Sơn
Danh nhân và Khoa bảng
Đại Nam nhất thống chí ghi: Nam Đàn có núi cao sông sâu nên xuất hiện nhiều người văn võ kiêm toàn. Bùi Dương Lịch, nhà "Nghệ học" thế kỷ 18, viết: Huyện Đông Thành và huyện Nam Đường vĩ nhân đã nhiều, mà khí tiết cũng thiên về mặt Cương Cường Quả Cảm. Hippolyte Le Breton, nguyên Hiệu trưởng Quốc học Vinh đầu thế kỷ 20 viết về Nghệ Tĩnh nói chung: Nghệ Tĩnh trong tất cả mọi thời đại, từ cổ đại cho đến ngày nay là một cái lò phản kháng và là một cái lò trí thức về truyền thống văn hóa (Le Nghe Tinh fut de tous temps – de l’antiquité à nos jours – un foyer de rebellion et un foyer intellectuel en ce qui concerne la tradition culturelle).
Huyện Nam Đàn là quê hương của các danh nhân Việt Nam như Mai Thúc Loan, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh. Nam Đàn cũng là quê hương của 38 vị đại khoa Việt Nam như: Đình nguyên, Thám hoa Nguyễn Đức Đạt; Thám hoa Nguyễn Văn Giao đời Nguyễn; Đình nguyên Tiến sĩ Vương Hữu Phu (khoa Canh Tuất- 1910).. Cụ phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc.
Những người nổi tiếng ngày nay có: Danh họa Nguyễn Tư Nghiêm, Nhà khoa học Tạ Quang Bửu, Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Tạ Quang Ngọc, Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, Thứ Trưởng Bành Tiến Long, giáo sư hóa học Nguyễn Thạc Cát, Giáo sư Nguyễn Văn Trương (Anh hùng Lao động), Giáo sư Phạm Như Cương, Giáo sư Nguyễn Thúc Hào, Giáo sư Nguyễn Văn Hường, Giáo sư Nguyễn Thúc Hải, Trưởng đoàn đàm phát Thương Mại Việt Mỹ Nguyễn Đình Lương, Phó Viện Trưởng VKSND tối cao Dương Thanh Biểu; Giáo sư Nguyễn Xuân Quỳnh, Giáo Sư toán học Tạ Quang Hải nguyên chủ nhiệm khoa Toán Đại học Vinh, Phó Giáo sư Sinh học Vương Hoàng Lan Đại học Đà Lạt. Tổng giám đốc Binh đoàn Trường Sơn: Thiếu tướng Lương Sỹ Nhung, Nhà văn, dịch giả: Ông Văn Tùng, Tiến Sỹ Trần Đình Hiếu nguyên vụ trưởng UB Kế hoạc Nhà Nước, Thiếu tướng Nguyễn Phong Phú Phó chính uỷ quân khu 4, Tiến Sỹ Trần Đình Phương Vụ trưởng Bộ Văn Hoá-TT, PGS Tiến Sỹ Trần Đình Lâm giảng viên ĐHNN Hà Nội, Tiến Sỹ Trần Đình Đạt Giảng viên ĐH Quốc tế Sin Ga Po.
Làng nghề, đặc sản
Nam Đàn có các làng nghề như Làng mộc nề Nam Hoa, làng rèn Quy Chính, làng tương Tự Trì, làng nón Đông Liệt, các làng dệt Xuân Hồ, Xuân Liễu, Tầm Tang, làng nồi đồng Bố Ân, Bố Đức, làng gạch ngói Hữu Biệt, làng dầu bông, dầu lạc Đan Nhiệm. Vùng Đại Huệ có sản phẩm chè xanh thơm ngon.
Nam Đàn nổi tiếng với những sản vật, món ăn: tương, bánh đúc hến, cá mòi, rượu nếp, tơ tằm…
- Nhút Thanh ChươngTương Nam Đàn
Nếm một chút
Ngọt sau ót
- Sa Nam trên chợ dưới đò
Bánh đúc hai dãy thịt bò mê thiên
Bánh đúc
Cá mòi
Cá rô bàu Nón
Làm tương
Làng nón
Nghề mây tre
Nuôi tằm
Sản phẩm tơ tằm
Văn hóa truyền thốngỞ Nam Đàn tồn tại những làn điệu ví phường vải, ví dặm đò đưa.
Con ơi mẹ dặn câu này
Chăm lo đèn sách cho tày áo cơm
Làm người đói sạch rách thơm
Công danh là nợ nước non phải đền...
Các tập tục văn hóa ở Nam Đàn có thể quan sát tại các lễ hội như lễ hội đình Hoành Sơn, lễ hội đền Mai Hắc Đế, lễ rước hến Thanh Đàm và lễ hội Làng Sen trước và trong dịp kỷ niệm ngày sinh của Danh nhân Văn hoá thế giới Hồ Chí Minh.
Đền thờ vua Mai Hắc Đế
Mộ vua Mai Hắc Đế
Lễ hội vua Mai Hắc Đế
Nhà lưu niệm Cụ Phan Bội Châu
Nhà quê nội Bác Hồ
Núi Chung
Mộ Bà Hoàng Thị Loan, mẹ Bác Hồ
Bước sang thiên niên kỷ thứ 3 là thời kỳ xây dựng một nước Việt Nam hiện đại về khoa học kỹ thuật, giàu mạnh về kinh tế, văn minh và công bằng trong đời sống tinh thần và vật chất, hy vọng núi sông Nam Đàn sẽ lại sản sinh ra nhiều vị anh hùng, nhiều nhà khoa bảng lỗi lạc của thời đại mới để nối tiếp xứng đáng truyền thống tốt đẹp hàng nghìn năm của quê hương mà tổ tiên, ông cha chúng ta đã để lại.
Xin tóm tắt lịch sử huyện Nam Đàn trong bài thơ Đường sau:
Nam Đàn đất rộng có là bao!Lịch sử nghìn năm đáng tự hào
Thịnh, Nhạn, Nam, Thanh nhiều sử tích,
Hoành, Trung, Hồ, Liễu lắm vì sao.
Anh hùng xuất chúng Mai, Phan, Nguyễn,
Khoa bảng lừng danh Xán, Đạt, Giao!
Truyền thống anh hùng và học giỏi,
Mong rằng hậu thế mãi giương cao.
NDX tổng hợp