Giỗ
Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng là ngày hội chung của toàn dân, nhằm
giáo dục truyền thống yêu nước “Uống nước nhớ nguồn”, biết ơn sâu
sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước.
Lễ giỗ Tổ Hùng Vương cử hành vào ngày mồng mười tháng ba:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Ngày
này, cả nước hướng về vùng Đất Tổ, người người trẩy hội Đền Hùng. Tổ
tiên người Việt luôn muốn nhắc nhở con cháu: ai ai cũng nên làm tròn bổn
phận, nhiệm vụ và chức năng của mình, giữ đúng kỷ cương vua ra vua, cha
ra cha, con ra con thì gia đình sẽ yên ổn, xã hội được an cư lạc nghiệp
phồn vinh, phát triển.
Lời di huấn này không chỉ được nhắc nhở
hằng năm thông qua ngày hội giỗ mà còn được khắc ghi trên trống đồng
Đông Sơn, trống thiêng của dân tộc, gửi gắm trong biểu tượng mặt trời
nằm rạng rỡ giữa trống đồng.
Thông qua ngày giỗ Tổ, tổ tiên ta còn có
hoài bão muốn nhắc nhở hậu thế những kế sách giữ nước an dân. Đó là nỗi
lo muôn thuở, là tấm lòng bao dung, tha thiết, rộng mở của Chư Tổ còn
vang vọng mãi khắp núi sông: "Hãy chôn ta trên núi Cả, để đứng trên núi
cao ta còn trông nom bờ cõi cho con cháu".
Cây có gốc. Nước có nguồn. Chim tìm tổ. Người tìm tông. Trở về Đền Hùng, chúng ta như giọt máu trở về tim.
Lễ hội Đền Hùng là lễ hội truyền thống
của dân tộc Việt Nam và có một đặc thù riêng là: phần lễ nặng hơn phần
hội. Tâm tưởng người về dự hội là hướng về tổ tiên, cội nguồn với sự tôn
kính và lòng biết ơn sâu sắc (Ẩm hà tư nguyên - Uống nước nhớ nguồn).
41 làng xã thuộc tỉnh Vĩnh Phú tham gia rước kiệu lễ dâng Tổ. Từ ngàn
xưa, trên các cỗ kiệu có bày lễ vật, đi kèm có phường bát âm tấu nhạc,
cờ quạt, bát bửu, lọng che cùng chiêng trống. Những làng ở xa thường
phải rước 2-3 ngày mới tới". "Xưa kia, việc cúng Tổ (cử hành) vào ngày
12 tháng 3 (âm lịch) hằng năm. Thường khi con cháu ở xa về làm giỗ trước
một ngày, vào ngày 11 tháng 3 (âm lịch)... Đến thời nhà Nguyễn, định lệ
5 năm mở hội lớn một lần (vào các năm thứ 5 và 10 của các thập kỷ), có
quan triều đình về cúng tế cùng quan hàng tỉnh và người chủ tế địa
phương cúng vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch). Do đó, ngày giỗ Tổ sau này
mới là ngày 10 tháng 3 (âm lịch) hàng năm” (Trích Hùng Vương và Lễ Hội
Đền Hùng - NXB Hội nhà văn).
Những năm hội chính thì phần lễ gồm: Tế
lễ của triều đình sau đó là phần lễ của dân. Có 41 làng được rước kiệu
từ đình làng mình tới Đền Hùng. Đó là những cuộc hành lễ thể hiện tính
tâm linh và nhân văn sâu sắc. Các kiệu đều sơn son thếp vàng, chạm trổ
tinh vi, được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ với sự
tham gia của các thành phần chức sắc và dân chúng trong tiếng chiêng,
trống, nhạc bát âm rộn rã một vùng. Phần hội gồm các trò chơi dân gian
như đánh vật, đu tiên, ném còn, cờ người, bắn cung nỏ... và đặc biệt là
các đêm hát xoan, hát ghẹo - hai làn điệu dân ca độc đáo của vùng đất
Châu Phong.
Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời đánh dấu bước ngoặt lịch sử mới của dân tộc ta. Kế tục
truyền thống cao đẹp của cha ông, nhất là đạo đức "uống nước nhớ nguồn",
nên giỗ Tổ Hùng Vương 1946 - sau khi Chính phủ mới được thành lập - là
một sự kiện hết sức đặc biệt, đáng ghi nhớ. Năm ấy, cụ Huỳnh Thúc Kháng,
Phó Chủ tịch nước, đã thay mặt Chính phủ VNDCCH lên làm lễ dâng hương
tại Đền Hùng. Cụ mặc áo the, khăn xếp, khấn vái theo lễ tục cổ truyền.
Cụ còn trang trọng dâng lên bàn thờ tấm bản đồ Việt Nam và thanh kiếm là
hai vật báu nói lên ý chí của Chính phủ và nhân dân ta trước họa xâm
lăng đang đe dọa trở lại. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, do
chiến tranh ác liệt nên việc đèn hương nơi mộ Tổ do nhân dân vùng quanh
Đền Hùng đảm nhiệm.
Kháng chiến thắng lợi với thiên sử vàng
Điện Biên Phủ (7/5/1954), ngày 19/9/1954, tại Đền Hùng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh kính yêu đã căn dặn cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân tiên phong trước
khi về tiếp quản thủ đô: "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu
ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Lời căn dặn cũng là lời hứa quyết tâm
ấy của vị đứng đầu đất nước, dân tộc đã được thực hiện vào mùa xuân
1975: sau 30 năm gian khổ hy sinh, nhân dân ta đã quét sạch bọn xâm lược
ra khỏi bờ cõi, giang san thống nhất, quy về một mối vẹn toàn. Có lẽ
không một dân tộc nào trên thế giới có chung một gốc gác tổ tiên - một
ngày giỗ Tổ như dân tộc ta. Từ huyền thoại mẹ Âu Cơ đẻ ra trăm trứng,
nửa theo cha xuống biển, nửa theo mẹ lên rừng đã khơi dậy ý thức về dân
tộc, nghĩa đồng bào và gắn kết chúng ta thành một khối đại đoàn kết. Hai
chữ đồng bào là khởi nguồn của yêu thương, đùm bọc, của sức mạnh Việt
Nam.
Mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh
giặc và dựng xây, Đền Hùng đã trở thành biểu tượng của tinh thần dân
tộc, là cội nguồn của sức mạnh, niềm tin, chói sáng của một nền văn hóa.
Từ trong ý thức tâm linh cả dân tộc luôn hướng về: "Nước mở Văn Lang
xưa/ Dòng vua đầu viết sử/ Mười tám đời nối nhau/ Ba sông đẹp như vẽ/ Mộ
cũ ở lưng đồi/ Đền thờ trên sườn núi/ Muôn dân đến phụng thờ/ Khói
hương còn mãi mãi".
Lịch sử như một dòng chảy liên tục. Trải
mấy nghìn năm, trước bao biến động thăng trầm, trong tâm thức của cả
dân tộc, Đền Hùng vẫn là nơi của bốn phương tụ hội, nơi con cháu phụng
thờ công đức Tổ tiên.
Mộ Tổ
Theo đại lộ Hùng Vương, thành phố Việt
Trì, ngược quốc lộ số 2 khoảng 20 cây số, nhìn phía trước thấy một quần
thể núi lô nhô có hình đàn voi chắn ngang tầm mắt. Xung quanh núi Nghĩa
Lĩnh với gần một trăm ngọn núi hình con voi (dân ta vẫn gọi là núi Voi)
thật hùng dũng, xếp sắp thật trật tự, đầu cùng quay về phía Đông Nam. Lạ
thay, trong đàn voi ấy lại có chú quay đầu ngược lại! Theo truyền
thuyết con voi này bị ghép vào tội “phản đàn”, “bất nghĩa”. Truyền
thuyết về con voi bất nghĩa đã được khai thác trong tiến trình bảo vệ
nước ta trước các thế lực ngoại xâm. Con voi bất nghĩa chính là kẻ phản
bội, đã bị chém đầu. Dấu vết của sự trừng phạt ấy người đời bảo giờ vẫn
còn đấy: những vết đất lở mầu tím như máu ở cổ con voi kèm theo dòng
nước lờ lờ rỉ ra từ đấy
Những người theo thuyết phong thủy xưa
kia lại có những tư duy, tưởng tượng lạ kỳ. Họ cho rằng nùi Hùng (nơi có
mộ Tổ Hùng Vương) là đầu một con rồng đang bay về phía Nam, mình rồng
uốn thành một dãy các khúc uốn (con voi), trong đó có núi Vặn ở sát sau
lưng, nơi hiện nay đang xây dựng đền thờ vọng Tổ mẫu Âu Cơ; phía bên
phải (Hy Sơn - Tiên Kiên) với dải đồi thấp xòe ra như “con phượng cặp
thư” và phía bên trái vùng đồi (Khang Phụ) y như một con hổ nằm (hổ
phục); cạnh đó dãy đồi An Thái hiện ra một hình “võ sĩ bắn cung”.
Trên nền đất siêu cổ ấy, mộ Tổ Hùng Vương thật vững chãi, chí ít cũng hàng ngàn năm nay chưa xảy ra động đất ở khu vực này.
Đặt mộ Tổ ở nơi bền vững như vậy thật là
bất ngờ, vì những kiến thức hiện đại trong địa chất học về phá vỡ các
siêu lục thành các mảng và sự va chạm giữa các mảng mới có từ những năm
60 của thế kỷ trước. Đây là sự bất ngờ, ngẫu nhiên hay các cụ chúng ta
ngày xưa đã có những phương pháp độc đáo nào để hiểu được những điều đó,
để đưa mộ Tổ về mảnh đất bền vững nhất, về nơi mộ không thể “bị động”,
điều mà cha ông ta rất kiêng kỵ. Các cụ ngày xưa, chẳng cứ từ thời Vua
Hùng, mà cả các triều đại sau đó, liên tục bổ sung, xây dựng mới, làm
cho khu mộ trở thành Khu di tích lịch sử có tầm quan trọng tâm linh bậc
nhất ở nước ta. Phải chăng các cụ xa xưa cũng am hiểu về cấu trúc địa
chất khu vực theo một phương pháp riêng nào đó mà chúng ta chưa biết
tới.
Mộ Tổ Hùng Vương đặt ở miền đất ổn định,
bền vững trên một dải đất nổi cũng như chìm rất giàu khoáng sản, toàn
những loại quý hiếm, giá trị kinh tế cao. Nơi địa hình đã tạo ra một đàn
voi bao quanh như bảo vệ vua Hùng hoặc ngôi mộ của Người, mãi mãi là
dải đất thiêng yêu quí của cả dân tộc ta. Vùng đất này có nhiều sông
ngòi ao hồ, đồi núi, lại có những cánh đồng màu mỡ phì nhiêu do phù sa
của ba con sông bồi đắp, vừa thuận lợi cho cuộc sống ổn định canh định
cư, vừa thuận lợi cho việc phòng thủ hay rút lui khi xảy ra các cuộc
xung đột bộ lạc.
Tương truyền Vua Hùng đã đi khắp mọi miền, về đây chọn làm đất đóng đô.
Đền Hạ:
Được xây dựng vào khoảng thế kỷ
XVII-XVIII, được làm hai lớp theo kiểu chữ nhị. Tương truyền nơi đây,
sau khi kết hôn Lạc Long Quân đã đưa Âu Cơ từ độc Lăng Xương (Thanh
Thủy), về đến núi Nghĩa Lĩnh, Âu Cơ ở lại sinh ra một bọc trăm trứng,
sau nở thành một trăm người con trai. Khi các con khôn lớn, Lạc Long
Quân bàn với Âu Cơ chia các con đi mở mang bờ cõi. 50 người con theo cha
đi xuôi về phía biển, 49 người con theo mẹ lên ngược vùng núi, người
con cả ở lại nối ngôi cha truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương. Cộng
đồng người Việt hình thành, hai tiếng đồng bào (cùng bọc) vì thế mà có.
Gác chuông và chùa Thiên Quang Thiền Tự (nơi có ánh sáng của mặt trời rọi xuống):
Xây dựng vào thời kỳ nhà Lê (từ 1427-1573) kiến trúc chủ yếu là cột gỗ có đá kê và lợp ngói.
Đền Trung (Hùng Vương Tổ Miếu):
Đền Trung xuất hiện sớm nhất trên núi
Hùng. Kiến trúc buổi đầu thời nhà trần (thế kỷ XIV). Vào thế kỷ XV (thời
Lê) bị giặc phía bắc tàn phá. Dân sở tại sau chiến tranh đã xây dựng
một ngôi đền khá lớn, có thớt đá kê cột gỗ, mái lợp ngói. Cách ngày nay
khoảng 300 năm, Đền Trung được xây dựng lại kiểu chữ nhất, tồn tại đến
bây giờ. Tương truyền nơi đây các vua Hùng thường họp bàn việc nước, hay
nỗi khi đi săn qua khu vực này thường đốt lửa nướng thịt chia đều cho
mọi người trong cuộc săn.
Vào thời Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh
đuổi giặc Ân từ phía Bắc tràn xuống, Vua Hùng Vương thứ 6 muốn chọn con
kế vị, người đã cho gọi 18 người con về núi Nghĩa Lĩnh, mở cuộc thi làm
cỗ, để tìm người con nào có lòng kính hiếu cha mẹ, yêu trọng non nước sẽ
nhường ngôi cho. Lang Liêu là người con út, thương dân yêu lao động,
hiếu thảo và sáng tạo làm hai thứ bánh tượng trưng cho trời và đất (đó
là bánh dày và bánh trưng) dâng cha.
Đền Thượng (Kính thiên Lĩnh Điện)
Được xây vào thế kỷ XV. Trong dịp đại
trùng tu từ năm 1914-1922, triều đình phong kiến Việt Nam xuất tiền và
cử quan về giám sát việc xây dựng lại đền Thượng (năm Khải Định nhị niên
- Tức Khải Định năm thứ 2). Người đời sau thường truyền lại rằng:
Thời Hùng Vương, Vua Hùng cùng các quan
tướng thường đến đỉnh cao Nghĩa Lĩnh để tiến hành nghi thức cầu cúng tế
trời đất, mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi để muôn dân ấm
no hạnh phúc. Vì thế mà Đền Thượng bây giờ vẫn gọi là “Kính thiên Lĩnh
Điện” (tức điện thờ trời trên núi Nghĩa Lĩnh).
Truyền thuyết còn kể lại rằng tại đỉnh
cao này, Hùng Vương thứ 6 sau cuộc kháng chiến chống giặc Ân thắng lợi,
cảm kích vị anh hùng có công đánh giặc Ân cứu nước đã lập miếu thờ Thánh
Gióng trên đỉnh núi.
Đền Giếng:
Kiến trúc có vào khoảng thế kỷ XVIII.
Đền Giếng nằm dưới chân núi Hùng gồm ba lớp nhà và hai nhà ở hai bên.
Tương truyền khi đi theo cha đi kinh lý qua vùng này, hai nàng Tiên Dung
- Ngọc Hoa con gái của Vua Hùng Vương thứ 18 thường đến đây soi gương
chải tóc. Hai nàng đã có công cùng chồng khẩn hoang, trị thủy, dạy dân
trồng lúa xây dựng cuộc sống. Đền Giếng được xây dựng vào thời gian nào
không ai nhớ rõ. Xưa có thể là mộ đất có mái che, sau tới năm 1874 được
xây dựng kiểu dáng như ngày nay.
Đền Quốc Mẫu Âu Cơ (Ngôi đền thế kỷ)
Đền Âu Cơ nguyên thủy được xây dựng từ
thời Hậu Lê tại xã Hiền Lương (Hạ Hòa, Phú Thọ), tuy không đồ sộ nhưng
khá nổi tiếng. Giá trị lớn nhất là sự gắn kết với những truyền thuyết
lịch sử của thời đầu dựng nước.
Để qui tụ các giá trị văn hóa tinh thần
thuộc thời đại Hùng Vương về hội tụ tại Khu di tích lịch sử Đền Hùng, từ
giữa tháng 9/2001, công trình đền Quốc Mẫu Âu Cơ chính thức được khởi
công xây dựng mới tại núi Vặn trong khuôn viên Khu di tích lịch sử Đền
Hùng (xã Hy Cương, Phù Ninh) và đến ngày 31/12/2004 đã hoàn thành cả nội
và ngoại thất với tổng giá trị đầu tư 25 tỷ đồng.
Trải qua một quá trình tìm hiểu nghiên
cứu kỹ địa thế, cuối cùng Ban chỉ đạo đầu tư xây dựng đã chọn đỉnh núi
Vặn (có độ cao 147m so với mực nước biển, đứng thứ nhì trong quần thể
núi Hùng) làm nơi an tự. Núi Vặn có phong cảnh sơn thủy hữu tình, có hồ
Lạc Long Quân bao quanh ôm ấp.
Đến thăm ngôi đền bạn có thể cảm nhận được sự vĩ đại và bề thế của công trình giữa cảnh núi non hùng vĩ, trùng điệp.
Chỉ riêng phần đường bậc lên, xuống cũng
đã khá kỳ công. Đường bậc được xây dựng trên một vách núi cao, dốc
thẳng với trên 500 bậc đá làm bằng chất liệu đá Hải Lựu (huyện Lập
Thạch, Vĩnh Phúc), đá Trị Quận (Phù Ninh).
Tam quan xây cao 5,8m có 3 lối vào. Lối
chính cao 2,2m, 2 lối phụ hai bên cao 1,2m. Khung cột, sườn mái làm bằng
bê tông cốt thép. Mái cổng lợp dán ngói mũi hài. Các đao góc, các hoạ
tiết chạm khắc trên đá và mái cổng Tam quan mô phỏng hình chim lạc.
Qua cổng Tam Quan lên tới bậc đá thứ 500
bắt đầu bước vào cổng tứ trụ gồm hai trụ chính cao 6,5m, hai trụ phụ
hai bên cao 5,2m. Cột trụ làm bằng bê tông cốt thép, xung quanh đắp gờ
chỉ tạo hoa văn, đắp trát các con giống thời kỳ Hùng Vương. Bốn cột trụ
vút thẳng trời cao biểu thị sự giao hoà giữa thiên nhiên và trời đất.
Tiếp đến là hai trụ biểu cao 14 - 15m
được ốp bằng đá phiến xanh từ vùng Thanh Hoá, Ninh Bình mang ra, dày 20 -
30cm được chạm khắc các hoạ tiết, con giống phổ thông theo hình chim
Lạc - được coi là hai trụ biểu độc đáo nhất cả nước.
Sau trụ biểu là hai nhà bia xây dựng
trên diện tích 66m2. Kiến trúc mang tính chất đền chùa: mặt bằng hình
vuông, mái chồng diêm, khung cột sườn mái làm bằng gỗ lim, nền lát gạch
bát, xung quanh ốp đá xanh Thanh Hoá, đá Hải Lựu và bố trí các con lân
con ly bằng đá.
Bia và trụ bia làm bằng đá một mặt khắc
chữ nôm, mặt kia khắc chữ quốc ngữ ghi lại thời kỳ xây dựng đền với sự
đóng góp công đức của đồng bào cả nước.
Qua nhà bia bước vào khu đền chính nằm
trên diện tích gần 500 m2. Khu đền chính gồm đền thờ chính và 2 nhà tả
vu, hữu vu nằm hai bên.
Đền chính đặt theo hướng Tây Nam, kiến
trúc xây dựng kiểu mái chồng diêm, mặt hình chữ Đinh, khung cột sườn mái
vách đố lụa bao che làm bằng gỗ lim tuyển chọn từ vùng Quảng Bình, Hà
Tĩnh.
Mái lợp ngói mũi hài âm dương, nền lát
gạch bát, sân và lan can bao quanh ốp đá xanh Thanh Hoá. Riêng thành lan
can được chạm khắc các hoạ tiết hình chim Lạc và các hoạt động văn hoá
dân gian thời kỳ Đông Sơn.
Nội thất trong đền gồm tượng Mẫu và hai
tượng Lạc Hầu, Lạc Tướng được đúc bằng đồng với khối lượng khoảng 2 tấn.
Các nhang án, đại tự, câu đối, bệ đặt trống đồng, giá treo chuông, treo
chiêng, cựa vọng, y môn... được sơn son thiếp vàng trên chất liệu gỗ
quí.
Hai bên tả vu là hai bức phù điêu khắc
họa cảnh 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo mẹ lên núi
bằng chất liệu gò đồng. Hai nhà tả vu, hữu vu đặt hai bên trái và phải
đền chính cũng làm bằng chất liệu gỗ lim, lợp ngói mũi hài âm dương dùng
làm nơi đặt đồ cúng lễ.
Trong khu đền chính còn có hệ thống sân
vườn tạo cảnh quan môi trường thiên nhiên xanh - sạch - đẹp. Do nằm trên
núi cao có độ chênh cốt lớn nên hệ thống sân vườn được xây dựng khá kỳ
công. Xung quanh đền chính được xây kè bằng 3 lớp, lớp trong cùng là
tường chắn bằng bê tông cốt thép, lớp giữa xây bằng đá hộc, lớp ngoài ốp
bằng đá ong lấy từ vùng làng cổ Sơn Vi, Thanh Đình (Lâm Thao, Phú Thọ).
Trong sân trồng các giống cây đặc trưng ở
đình chùa mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam như cây đại cổ thụ,
cây cau, cây si, ngọc lan... Từ trên đền chính trong những ngày nắng
đẹp ta có thể phóng tầm mắt bao quát toàn bộ khung cảnh Khu công nghiệp
Bãi Bằng, supe, thành phố Việt Trì, xa xa là 3 dải sông Hồng, sông Lô,
sông Đà uốn lượn như những con rồng nhỏ ôm ấp chân núi mẹ.
Diện mạo một ngôi đền thế kỷ đang hiện
rõ với một kiến trúc đẹp, một hệ thống chiếu sáng hoàn chỉnh, một hệ
thống chống sét tiên tiến nhất hiện nay với sự góp công, góp sức của
những người thợ, những nghệ nhân tên tuổi.
Đền Mẫu Âu Cơ đã đạt được ý nguyện quy
tụ các giá trị văn hoá thời đại Hùng Vương bảo đảm phục vụ du khách
trong nước và quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài về dự Giỗ Tổ Hùng Vương.
Nguồn Vietnamnet