Lầu Hoàng Hạc (Hoàng Hạc lâu) là một danh
thắng nổi tiếng nằm ở thành phố Vũ Hán, thủ phủ của tỉnh Hồ Bắc, thuộc
khu vực miền Trung Trung Quốc. Ngôi lầu này được tôn là một trong ba ngôi
lầu lớn nổi tiếng ở vùng Giang Nam (Nam sông Trường Giang) và là một trong
bốn “tứ đại danh tháp” của Trung Quốc là Hoàng Hạc lâu, Đằng Vương các, Nhạc
Dương lâu và Bồng Lai các.
Tương truyền rằng Lầu Hoàng Hạc được xây
dựng trên
ngọn Xà Sơn, huyện Vũ Xương vào thời Tam Quốc, cụ thể là vào năm Hoàng Vũ
thứ 2 đời Ngô Đại đế Tôn Quyền, vua Đông Ngô thời Tam Quốc (tức 223 Tây Lịch).
Mục đích ban đầu của việc xây lầu trên ngọn núi ven sông này là do có nhu
cầu về quân sự, nhưng về sau dần dần nó trở thành danh lam thắng cảnh
thu hút văn nhân đến kết bạn, viết văn, ngâm thơ và ngắm cảnh tại
đây.
Về xuất xứ tên gọi “Hoàng Hạc” có nhiều thuyết
khác nhau nhưng đều đề cập đến tiên, đến hạc. Tương truyền có một đạo sĩ tên là
Phí Văn Vi, người nước Thục tu luyện đắc đạo thành tiên thường cỡi hạc vàng ngao
du. Một hôm, tiên cưỡi hạc bay ngang đất Vũ Hán và dừng chân lại trên “núi Rắn”
(Xà Sơn) để ngắm nhìn cảnh đẹp hùng vĩ của dòng Trường Giang và Ngũ Hồ diễm
lệ.
Từ tích đó mà người đời sau đã dựng một tháp lầu
đặt tên là “Hoàng Hạc”. Theo sách Nam Tề thư thì viết rằng vị tiên đó tên là Tử
An. Sách Báo Ứng lục thì kể về người buôn rượu tên là Tân Thị được tiên giúp nấu
rượu mà trở lên giàu có, sau này ông đã xây dựng tòa lầu tại nơi vị tiên cỡi hạc
về trời và đặt tên là “Hoàng Hạc”...
Từ bao đời, lầu Hoàng Hạc là nơi gặp mặt tao
đàn của các văn nhân, mặc khách đương thời. Họ đến đây vừa thưởng ngoạn phong
cảnh non nước hữu tình, vừa uống rượu làm thơ, bình văn. Trong số đó có bài thơ
lưu danh thiên cổ “Hoàng Hạc Lâu” của nhà thơ đời Đường là Thôi Hiệu đã
khiến ngôi lầu này trở lên nổi tiếng khắp nơi.
Tương truyền một nhà thơ cũng sống ở đời Đường
được tôn là “Thi Thánh” là Lý Bạch đến lầu Hoàng Hạc cũng định làm thơ nhưng khi
đọc thấy bài thơ của Thôi Hiệu đề ở trên vách đã quá đầy đủ, không còn thêm gì
được nữa nên đành vứt bút ngửa mặt cất lời than cũng như một lời nhắn lại
rằng:
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất
đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu
Nghĩa là:
Trước mắt thấy cảnh không tả
được
Vì Thôi Hiệu đã nói hết trong bài thơ đề ở trên đầu
Vì Thôi Hiệu đã nói hết trong bài thơ đề ở trên đầu
Nhiều danh nhân nổi tiếng của nước ta khi được cử
làm sứ thần sang giao thiệp với các vương triều Trung Quốc cũng đã ghé thăm,
chiêm ngưỡng lầu Hoàng Hạc và làm thơ vịnh danh thắng này như Hồ Sĩ Đống,
Nguyễn Tông Khuê, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du… họ không những không “chùn bút nản
lòng” mà còn sáng tác những vần thơ khiến cho thi nhân mặc khách phương Bắc cũng
phải kính trọng nể vì.
Trong số những sứ thần nước Việt, Phạm Sư Mạnh là
người đầu tiên đề thơ tại Lầu Hoàng Hạc. Bài thơ Đăng lầu Hoàng Hạc (Lên lầu
Hoàng Hạc) được ông sáng tác trong thời gian đi sứ nhà Nguyên năm Ất Dậu
(1345).
Non xanh chùng chập bào quanh đất Bành
Thành
Lấn mây chọc hán như bình phong ngọc
Nước Hoàng Hà cuồn cuộn ngấm đến trục trái đất
Sóng nhô bọt sủi đổ cả về đông nam
Lầu Hoàng cao ngất lưng chừng trời
Lên cao trông xa ba nghìn dặm
Trước đài Hạng Vương ánh xế hồng
Trên mồ Quán Quân nổi gió thảm
Lấn mây chọc hán như bình phong ngọc
Nước Hoàng Hà cuồn cuộn ngấm đến trục trái đất
Sóng nhô bọt sủi đổ cả về đông nam
Lầu Hoàng cao ngất lưng chừng trời
Lên cao trông xa ba nghìn dặm
Trước đài Hạng Vương ánh xế hồng
Trên mồ Quán Quân nổi gió thảm
Trời hoang, đất cỗi chiến trường
cũ
Anh hùng nghìn xưa nay còn đâu
Nhà ta ở tận cõi Nam
Tay cầm tiết ngọc lên lầu Hoàng Hạc
Mài sườn núi khắc chữ Đông Pha
Như nay chẳng phụ chí du lịch bình sinh.
(Bản dịch của Viện sử học Việt Nam)
Anh hùng nghìn xưa nay còn đâu
Nhà ta ở tận cõi Nam
Tay cầm tiết ngọc lên lầu Hoàng Hạc
Mài sườn núi khắc chữ Đông Pha
Như nay chẳng phụ chí du lịch bình sinh.
(Bản dịch của Viện sử học Việt Nam)
Đây cũng được coi là tác phẩm đầu tiên của người
Việt viết về ngôi lầu nổi tiếng này. Tác giả của nó không chỉ là một sứ thần tài
giỏi mà còn là một danh sĩ, một đại quan.
Chính sử không ghi nhận cụ thể về tiểu sử của ông
nhưng theo nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, gồm cả dã sử thì Phạm Sư Mạnh tên thật
là Phạm Độ, tự là Nghĩa Phu, hiệu Hiệp Thạch, Uý Trai, không rõ năm sinh, năm
mất, chỉ biết ông sống khoảng thế kỷ XIV dưới thời vua Trần Minh Tông, Trần Hiến
Tông... Ông quê ở làng Hiệp Thạch, huyện Hiệp Sơn, phủ Kinh Môn, lộ Hải Đông
(nay thuộc xã Phạm Mệnh, huyện Kim Môn, Hải Dương).
Phạm Sư Mạnh cùng với Lê Quát là hai trong những
học trò xuất sắc của Chu Văn An, họ đều đỗ đạt làm quan nhà Trần. Phạm Sư Mạnh
đỗ đỗ Thái học sinh (Tiến sỹ) đời Trần Minh Tông (1314 - 1329) và được vua đổi
tên là Phạm Sư Mạnh, ông ra làm quan cho nhà Trần năm Qúy Hợi (1323) dần thăng
lên đến chức nhập nội hành khiển.
Đến năm Ất Dậu niên hiệu Thiệu Phong thứ năm
(1345) đời Trần Dụ Tông, ông được cử đi sứ phương Bắc để tranh luận về địa giới
cột đồng, một năm sau ông được giữ chức Chưởng bạ thư kiêm Khu mật tham
chính.
Năm Mậu Tuất niên hiệu Đại Trị thứ nhất (1358)
Phạm Sư Mạnh lại đảm nhận chức Nhập nội hành khiển Tri khu mật viện sự và chỉ
một năm sau được thăng làm Hành khiển tả tư lang trung.
Năm Nhâm Dần niên hiệu Đại Trị thứ năm (1362) đời
Trần Dụ Tông, Phạm Sư Mạnh tiếp tục giữ chức Tri khu mật viện sự, rồi thăng lên
chức Nhập nội nạp ngôn. Quãng thời gian sau đó ông được cử trông coi việc phòng
thủ biên cương, phòng chống ngoại xâm và giặc cướp.
Phạm Sư Mạnh là một trí thức Nho giáo, sống có
hoài bão, mang nặng ưu tư trước bao biến thiên của thời cuộc và cũng như Lê
Quát, ông có nhiều trăn trở trước sự suy thoái của đạo Thánh hiền ở cuối đời
Trần. Đã nhiều lần ông cùng với Lê Quát muốn sửa đổi một số chế độ nhưng không
được triều đình nghe theo.
Phạm Sư Mạnh sáng tác nhiều nhưng nay phần lớn đã
thất lạc mất, chỉ còn có Hiệp Thạch tập nay còn 33 bài trong được chép lại trong
Toàn Việt thi lục và một bài văn bia. Thơ ông tiếp tục truyền thống thơ yêu nước
đời Trần, ca ngợi non sông hùng vĩ, nhắc lại những chiến công oanh liệt chống
ngoại xâm của dân tộc như Đăng Thạch môn sơn tác, Chi Lăng động, v..v…
Một tác gia nổi tiếng thời Nguyễn là Phan Huy Chú
trong Lịch triều hiến chương loại chí khen ngợi về thơ văn của Phạm Sư Mạnh như
sau: “Tình thơ cao siêu, hào phóng, là một danh gia cuối đời Trần”; còn về tác
phẩm viết về lầu Hoàng Hạc cùng các sáng tác của ông trong thời gian đi sứ, Phan
Huy Chú cũng cho hay: “Lời thơ đều có phong thái nhàn nhã, thật có thể hơn người
Nguyên”.
LÊ HÙNG
PHONG
Nguồn: tapchinhavan
Nguồn: tapchinhavan