(PetroTimes) - 26 năm trước, ngày 14/3/1988, trên vùng biển thuộc Quần đảo Trường Sa của chúng ta, Hải quân Trung Quốc đã huy động hàng chục tàu
chiến bao vây cụm đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao, Chữ Thập, Châu Viên… ngăn
chặn lực lượng Hải quân Việt Nam đang triển khai xây dựng công trình
giữ đảo. Tàu chiến Trung quốc đã nổ súng tấn công vào lực lượng Hải quân
Việt Nam, bắn cháy và chìm 3 tàu vận tải quân sự của Việt Nam. Trong
cuộc chiến đấu không cân sức ấy, 64 cán bộ, chiến sĩ hải quân ta đã hy
sinh.
Trận Gạc Ma
Nhân dịp này, Petrotimes sẽ chuyển đến
bạn đọc nguyên nhân, diễn biến và hậu quả của cuộc hải chiến 14/3/1988
để thấy rõ hơn hành động ngang ngược, vi phạm chủ quyền quốc gia và luật
pháp quốc tế của Trung Quốc đối với Việt Nam. Đồng thời, tôn vinh những
cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đã mưu trí, dũng cảm và sẵn
sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Phần I: Những dấu hiệu bùng nổ cuộc hải chiến
Đầu năm 1988, lần đầu tiên Hải quân
Trung Quốc cho quân chiếm đóng một số bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa:
chiếm giữ đá Chữ Thập (31 tháng 1), đá Châu Viên (18 tháng 2), đá Ga Ven
(26 tháng 2), đá Tư Nghĩa (Huy Gơ, 28 tháng 2), Xu Bi (23 tháng 3). Các
bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa được gọi là đảo chìm, đều có chữ đầu
là “đá”.
Hải quân Việt Nam đưa vũ khí, khí tài ra
đóng giữ tại các đá Tiên Lữ (26 tháng 1), đá Lát (5 tháng 2), đá Lớn (6
tháng 2), đá Đông (18 tháng 2), đá Tốc Tan (27 tháng 2), đá Núi Le (2
tháng 3), bước đầu ngăn chặn được hành động mở rộng phạm vi chiếm đóng
của Hải quân Trung Quốc ra các đảo lân cận. Phía Việt Nam dự kiến Trung
Quốc có thể chiếm thêm một số bãi cạn xung quanh cụm đảo Sinh Tồn, Nam
Yết và phía đông kinh tuyến 115°.
Tàu HQ-931 chở những người còn sống sót và thi thể các chiến sĩ sau trận chiến Gạc Ma về Cam Ranh (Ảnh tư liệu).
Căn cứ vào tình hình xung quanh khu vực
Trường Sa, Hải quân Việt Nam xác định: Gạc Ma giữ vị trí quan trọng, nếu
để hải quân Trung Quốc chiếm giữ thì họ sẽ khống chế đường tiếp tế của
Việt Nam cho các căn cứ tại quần đảo Trường Sa. Vì vậy, thường vụ Đảng
ủy Quân chủng Hải quân hạ quyết tâm đóng giữ các đá Gạc Ma, Cô Lin và
Len Đao... Thường vụ Đảng ủy Quân chủng giao cho Lữ đoàn Vận tải 125 cử
lực lượng thực hiện nhiệm vụ này.
Trong khi đó, Hải quân Trung Quốc sau
khi đưa quân chiếm đóng các rạn san hô Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Xu
Bi, Tư Nghĩa cũng đang có ý đồ chiếm giữ ba đá Gạc Ma, Cô Lin và Len
Đao. Đầu tháng 3 năm 1988, Trung Quốc huy động lực lượng của hai hạm đội
xuống khu vực quần đảo Trường Sa, tăng số tàu hoạt động ở đây thường
xuyên lên 9 đến 12 tàu chiến gồm: 1 tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ
tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải hỗ trợ LSM, tàu đo
đạc, tàu kéo và 1 pông tông lớn.
Trước tình hình này, ngày 31/3, Tư lệnh
Hải quân Việt Nam lệnh cho vùng 4, Lữ đoàn 125, Lữ đoàn 146, các hải đội
131, 132, 134 của Lữ đoàn 172 chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao.
Đồng thời lệnh cho Vùng 1, Vùng 3 và Lữ đoàn 125 ở Hải Phòng chuyển
trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường. Bộ tư lệnh Hải quân điều động
41 tàu thuyền và phương tiện nổi của Lữ đoàn 125, Cục Kinh tế, Vùng
1,3,5, Trường Sĩ quan Hải quân Việt Nam (nay là Học viện Hải quân Việt
Nam), nhà máy Ba Son... đến phối thuộc khi cần thiết.
Lúc 19h ngày 11/3, tàu HQ-604 của Việt Nam rời cảng ra đá Gạc Ma để thực hiện nhiệm vụ trong chiến dịch CQ-88 ("Chủ Quyền 88").
Ngày 12 tháng 3, tàu HQ-605 thuộc Lữ 125
do thuyền trưởng Lê Lệnh Sơn chỉ huy, được lệnh từ đá Đông đến đóng giữ
đá Len Đao trước 6 giờ ngày 14 tháng 3. Sau 29 giờ hành quân, tàu 605
đến Len Đao lúc 5 giờ ngày 14 tháng 3 và cắm cờ Việt Nam trên đá san hô
này.
Thực hiện nhiệm vụ đóng giữ các đá Gạc
Ma và Cô Lin, 9h ngày 13/3, tàu HQ-604 của thuyền trưởng Vũ Phi Trừ và
tàu HQ-505 của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về
phía Gạc Ma, Cô Lin. Phối hợp với hai tàu 505 và 604 có hai phân đội
công binh (70 người) thuộc Trung đoàn công binh 83, bốn tổ chiến đấu (22
người) thuộc Lữ đoàn 146 do Trung tá Trần Đức Thông, Phó Lữ đoàn trưởng
chỉ huy và bốn chiến sĩ đo đạc của Đoàn đo đạc và biên vẽ bản đồ (thuộc
Bộ Tổng tham mưu). Sau khi hai tàu của Việt Nam thả neo được 30 phút,
tàu hộ vệ của Hải quân Trung Quốc từ Huy Gơ chạy về phía Gạc Ma, có lúc
đôi bên chỉ cách nhau 500 m.
17h ngày 13/3, tàu Trung Quốc áp sát tàu
HQ-604 và dùng loa gọi sang. Bị uy hiếp, hai tàu 604 và 505 kiên trì
neo giữ quanh đá. Tàu chiến của Trung Quốc cùng một hộ vệ hạm, hai hải
vận hạm thay nhau cơ động, chạy quanh đá Gạc Ma.
Trước tình hình căng thẳng do Hải quân
Trung Quốc gây ra, lúc 21h ngày 13/3, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam chỉ
thị cho Trần Đức Thông, Vũ Huy Lễ, Vũ Phi Trừ chỉ huy bộ đội quyết giữ
vững các đá Gạc Ma, Cô Lin. Tiếp đó, Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ thị cho lực
lượng công binh khẩn trương dùng xuồng chuyển vật liệu xây dựng lên đá
ngay trong đêm 13/3. Thực hiện mệnh lệnh, tàu 604 cùng lực lượng công
binh Trung đoàn 83 chuyển vật liệu lên đá Gạc Ma; tiếp đó, lực lượng của
Lữ đoàn 146 bí mật đổ bộ, cắm cờ Việt Nam và triển khai bốn tổ bảo vệ
bãi đá Gạc Ma.
Lúc này, Trung Quốc điều thêm hai hộ vệ
hạm trang bị pháo 100 mm đến hỗ trợ lực lượng đã đến từ trước, yêu cầu
phía Việt Nam rút khỏi đá Gạc Ma. Ban chỉ huy tàu 604 họp nhận định:
Trung Quốc có thể dùng vũ lực can thiệp và quyết định phương án tác
chiến đề ra, quyết tâm bảo vệ Gạc Ma.
Ngày 14/3, chiến sự diễn ra tại khu vực các bãi đá Gạc Ma, Cô Lin, và Len Đao.
(Còn tiếp)