-
Đó là nơi tôi đã gắn bó cả cuộc đời. Ở đó có những người mà tên tuổi
làm rạng rỡ cho làng nhưng ở đó cũng có những kẻ "đốt đền" để lại tiếng
dơ cho con cháu. Nhưng dẫu trải qua bao thăng trầm, ta vẫn yêu người tha
thiết, Làng ơi !
Làng
tôi bé lắm. Lại nằm trên một quả đồi hun hút. Con suối nhỏ phía chân
đồi trước mặt chảy về hướng tây bắc, hình như nó đổ ngược lên sông
Sê-rê-pốc thì phải. Mé đồi phía ấy vẫn hoang sơ như thuở nào bởi nó dốc
quá, chỉ có cây dại mọc chằng chịt, vậy mà không biết từ bao giờ, những
bụi chuối mốc mọc thành rừng. Đất dốc nhưng lại màu mỡ, chuối tốt vút
lên, có cây thân to, phỉ một vòng tay người lớn.
Nhớ
cái thời bao cấp khổ sở, thuở còn độc thân, chúng tôi vẫn xuống suối
kín nước hay săn tìm những thứ có thể nhá được để cải thiện bữa ăn hàng
ngày. Nước suối đục ngầu, xách được xô nước về phòng thì rửa chân mất
một phần ba. Hai phần còn lại sau khi lắng, đáy xô dày một lớp bùn đỏ,
bây giờ nhớ lại vẫn còn rùng mình, thế mà cả làng ăn uống cái thứ nước
ấy hàng mấy năm ròng. Thứ của trời có thể giúp chúng tôi cải thiện được
bữa ăn thời bao cấp đói khát là nõn chuối. Cây chuối non lột bỏ mấy lớp
vỏ ngoài, lộ ra phần nõn trắng tinh, mềm giòn, đem về thái mỏng, bóp với
muối lạc, thêm tí ớt, rau thơm là có món “đặc sản” nhà giáo hiếm thấy.
Cả
đến khi “xây” được cái tổ ấm nho nhỏ cho riêng mình, tôi vẫn xuống suối
chặt chuối, nhưng không phải để làm cái món nộm kia nữa mà là để nuôi
heo. Thân hình lỏng khỏng vì đói cơm nhưng sự ham hố thì chẳng lỏng
khỏng tí nào, tôi cứ nhằm cây to nhất mà đốn hạ. Cây chuối đè lệch vai
mà vẫn cố sức vác lên khỏi bờ dốc, bở cả hơi tai, có lúc tưởng như cặp
ống điếu của mình đang “trụn” xuống. Bà Ngô Thị Tuyển, anh hùng vác hai
hòm đạn 98 kg thời chống Mĩ, mà trông thấy hình ảnh này thì chắc cũng
phải phục sát đất. Ai dám bảo thầy giáo dài lưng tốn vải ? Chao ôi ! Mới
đó mà đã mấy chục năm trôi qua rồi.
Làng
tôi hình thành từ nửa cuối những năm 70 thế kỉ trước. Lớp người đầu
tiên tha hương vào đây lập làng trong đó có tôi còn trụ lại được đến hôm
nay chỉ đếm trên đầu ngón tay. Giá mà ở thời cụ bá Kiến, chúng tôi lại
chả được xếp vào hàng tiên chỉ, ăn lộc làng đó sao ? Ngoảnh đi ngoảnh
lại, bạn bè, đồng nghiệp nhiều người đã thành thiên cổ. Họ chẳng bao giờ
thấy được cái viễn cảnh hôm nay của làng, nơi mình đã hi sinh cả một
thời tuổi trẻ.
Làng
tôi cũng như bao làng quê khác trên đất nước này, mang những nét đặc
trưng của văn hóa xứ sở từ thưở xa xưa ông bà để lại. Hỉ nộ ái ố đủ cả,
tốt xấu hay giở đan xen. Những lề thói của văn hóa làng ăn sâu vào tâm
thức, không dễ gì mà rứt bỏ được. Ngay cả nơi công sở của các cơ quan
nhà nước bây giờ, văn minh Tây hóa là thế mà chất làng vẫn còn hiện rõ
trong cách ứng xử hàng ngày. Độc đoán, gia trưởng, ích kỉ, bảo thủ, cha
chung không ai khóc… ở đâu mà chẳng thấy, không cứ một làng quê hay một
cơ quan nào. Chẳng khó để bắt gặp một “bá Kiến”, “Chí Phèo”, “binh
Chức”, “năm Thọ” hay “thị Nở”, và cả những “anh Pha”, “chị Dậu” nữa…
Dưng
mà, Làng tôi – tôi yêu lắm. Cả đời tôi, cả sự nghiệp của tôi gắn bó với
Làng. Dẫu còn bao nỗi buồn vui, cay đắng, nhưng Làng ơi – ta yêu người
mãi mãi !
Nguyễn Duy Xuân