“Ngục trung nhật ký” là một tác phẩm văn
học gồm 133 bài thơ bằng chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ năm 1960
tác phẩm này được dịch
ra tiếng Việt, đến nay đã được xuất bản nhiều lần, dưới nhiều hình thức
khác nhau, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới, nhiều lần
được thể hiện bằng thư pháp tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Triều Tiên,
tiếng Nhật... Có thể nói tác phẩm này đến nay đã được coi là Bảo vật
Quốc gia.
Nhưng nhiều người vẫn còn chưa biết về những hành trình trước đó của nó.
Lấy
tên là Hồ Chí Minh, ngày 13 tháng 8 năm 1942, Bác Hồ của chúng ta với
danh nghĩa là người đại diện của Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh)
và Phân bộ quốc tế chống xâm lược của Việt Nam sang Trung Quốc để gặp
nhà đương cục Quốc dân đảng (nhưng thật ra là đi gặp Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc). Dọc đường, bọn Quốc dân đảng khám xét thấy đồng
chí đi cùng là Dương Thuận Cương (tức Dương Đào, người Trung Quốc) không
có giấy tờ, chúng bắt giữ cả hai người, buộc cho Bác tội Hán gian. Bác
bị chúng giải tới giải lui qua 13 huyện với 18 nhà lao ở tỉnh Quảng Tây
trong suốt 13 tháng trời, phải chịu mọi sự hà khắc của chế độ nhà tù
Quốc dân đảng. Ông Dương Thuận Cương cùng bị giam giữ qua các nhà lao
cùng Bác và đã mất trong ngục ở Liễu Châu vào mùa đông năm 1942. Bác đã
viết thư báo cho gia đình biết tin đau buồn đó. Do nhầm lẫn nên nhiều
nhà cách mạng Việt Nam ngày đó cũng nhận được tin Bác đã mất trong nhà
lao Tưởng Giới Thạch.
Mùa hè năm 1943 ông Hồ Đức Thành được
giao một số nhiệm vụ sang Long Châu (Trung Quốc), trong đó có việc “bằng
mọi cách tìm ra tung tích Ông Cụ (Bác Hồ); kết quả ra sao, báo tin về
nước ngay”. Tới Long Châu, ông Hồ Đức Thành vội đến tìm hiểu ở các nhà
chức trách Trung Hoa dân quốc, song không ai biết tin gì. Mãi đến đầu
trung tuần tháng 9 năm 1943, họ mới cho biết Hồ Chí Minh đã được trả lại
tự do tại Liễu Châu. Ông Hồ Đức Thành vội thu xếp đi Liễu Châu ngay và
đã được gặp Bác Hồ sau khi Bác được trả tự do độ 9, 10 ngày. Lúc ấy Bác
rất yếu, đi không vững. Ông Hồ Đức Thành báo cáo với Bác tình hình công
tác ở Long Châu, nghe Bác giảng giải, phân tích những điều chưa hiểu rõ
hoặc làm chưa tốt trong công tác cách mạng ở hải ngoại.
Có lần Bác hỏi ông Thành: “Chú có làm
thơ không” – “Thưa Cụ có”, ông Thành đáp. - “Chú đọc tôi nghe một bài!” –
ông Thành dè dặt: “Thưa Cụ, bài này tôi mới làm, chưa được hoàn chỉnh,
xin Cụ phủ chính cho ạ!” rồi ông Thành đọc:
THĂM BÁC VỪA THOÁT NẠN
Nhớ Bác những ngày tại Liễu Châu,
Ra tù mươi bữa khóc ôm nhau!
Thân hình gầy guộc đi không vững,
Mái tóc lưa thưa lại lở đầu.
Đôi mắt lung linh ngời ánh sáng,
Từng lời ấm ấp đậm tình sâu.
Gông cùm, xiềng xích không lay chuyển,
Quyết dựng cơ đồ, chí vút cao!
Ra tù mươi bữa khóc ôm nhau!
Thân hình gầy guộc đi không vững,
Mái tóc lưa thưa lại lở đầu.
Đôi mắt lung linh ngời ánh sáng,
Từng lời ấm ấp đậm tình sâu.
Gông cùm, xiềng xích không lay chuyển,
Quyết dựng cơ đồ, chí vút cao!
- “Hừ ! chú này thật đa sự !” Bác nói, rồi chuyển ngay sang chuyện khác.
Một buổi sáng, Bác Hồ đã cho ông Thành
xem tập “Ngục trung nhật ký”. Nó được đóng bằng những tờ giấy báo cắt ra
khâu lại, chữ được viết bằng bút máy, khổ giấy to hơn quyển “Ngục trung
nhật ký” bằng giấy bản, hiện lưu trữ ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam. Xét
về mặt văn bản học, quyển mà ông Hồ Đức Thành xem mới đích thực là
chính bản; bản lưu trữ hiện nay ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam chỉ là á
bản. Theo lời ông Thành, khi chép lại, Bác Hồ có sửa. Chẳng hạn, bài
“Khai quyển”, bài mở đầu tập “Ngục trung nhật ký” đã được Bác Hồ viết
như sau ở chính bản:
KHAI QUYỂN
Lão phu bản bất sính ngâm thi,
Nhân vị ngục trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi ma tuế nguyệt ,
Ngâm thi đẳng đãi tự do thì.
Nhân vị ngục trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi ma tuế nguyệt ,
Ngâm thi đẳng đãi tự do thì.
Bác Hồ khi chép lại, đã sửa thành:
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị tù trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.
Nhân vị tù trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.
Đọc hết tập “Ngục trung nhật ký”, ông
Thành có hỏi Bác Hồ vì sao ở bìa tập nhật ký lại ghi: 29.8.1932 -
10.9.1933. Bác đáp: “Mình muốn đánh lạc hướng, ai hiểu thế nào thì
hiểu”.
Khi về Pác Bó, Bác Hồ đã gửi quyển “Ngục
trung nhật ký” cho một nhà cơ sở mà không mang theo vào hang, vì sợ
giấy bản không chịu được hơi ẩm trong hang. Cơ quan lúc ấy lại đổi chỗ ở
luôn nên sau đó Bác quên bẵng nơi gửi. Ông Hồ Viết Thắng, người đồng
hương với Bác Hồ, có thời là Bộ trưởng, là Phó Chủ nhiệm ủy ban Kế hoạch
Nhà nước đã phát hiện ra tập nhật ký này và chính tay ông Thắng đã trao
nó lại cho Bác. Ông Hồ Viết Thắng còn nhớ khi nhận được tập nhật ký,
Bác đã nói: “Mình cứ tưởng quyển này đã bị mất rồi, may lại tìm thấy”,
rồi Bác cho đưa quyển “Ngục trung nhật ký” vào phòng lưu trữ của Văn
phòng Trung ương Đảng.
Người giữ Phòng lưu trữ là ông Hùng lại không biết chữ Hán và khi gửi tập nhật ký vào, cũng không ai nói về lai lịch tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nên ông Hùng xếp vào một góc phòng lẫn với những sách vở tài liệu chữ Hán khác.
Phải đến đầu năm 1959, quyển “Ngục trung
nhật ký” mới được ông Phạm Văn Bình tình cờ phát hiện ra. Ông Phạm Văn
Bình nguyên là Trưởng ban Giáo vụ Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc; ông được
phân công giảng về Cách mạng Việt Nam thời kỳ 1939 - 1945, nên đã đến
Phòng lưu trữ của Trung ương Đảng đọc thêm tài liệu. Ông Bình đã từng
học chữ Hán nên sau một lúc lục lọi, ông đã moi ra được quyển “Ngục
trung nhật ký” của Bác Hồ. Sau khi nghe ông Bình giảng giải, ông Hùng
mới hiểu rõ giá trị quyển “sổ” có bìa lem luốc mà ông đã giữ bấy lâu
nay. Ông Hùng cho ông Bình mượn mang về dịch với điều kiện dịch xong sẽ
nộp cho phòng lưu trữ một bản dịch.
Ông Phạm Văn Bình mang về giao cho ông
Văn Phụng là phiên dịch chữ Hán của trường phiên âm và dịch nghĩa; Dịch
xong đến đâu, đưa lại cho ông Bình đến đấy để ông dịch ra thơ Quốc âm
(ông Văn Phụng không biết làm thơ) gặp chỗ nào ngờ ngợ về ngữ nghĩa ông
Phạm Văn Bình lại tranh thủ ý kiến cụ Phó bảng Bùi Kỷ khi ấy đang là học
viên ở trường, và các nhân sĩ trí thức trong lớp. Khi dịch thơ, ông
Bình lấy bút danh là Văn Trực. Dịch xong 133 bài thơ trong “Ngục trung
nhật ký”, ông Bình mang báo cáo với đồng chí Trường Chinh thường có giờ
giảng ở trường. Ông Trường Chinh khuyên nên đưa cho ông Tố Hữu (hồi đó
là Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, Bí thư Học ủy của trường, lại là
một nhà thơ).
Một sáng chủ nhật, ông Phạm Văn Bình đến
nhà ông Tố Hữu song không gặp. Ông Bình viết thư và để toàn bộ tập tài
liệu lại. Vào 5 giờ chiều hôm ấy, ông Tố Hữu cho xe xuống đón ông Bình.
Khi đến nơi thấy hai ông Đặng Thai Mai và Hoài Thanh đến trước. Cuộc họp
ngắn gọn, ông Tố Hữu giao nhiệm vụ cho Viện Văn học (hồi đó ông Đặng
Thai Mai là Viện trưởng, ông Hoài Thanh là Viện phó). Về cơ quan, hai
ông đã giao cho ông Nam Trân cùng làm việc gấp với ông Phạm Văn Bình để
kịp sang năm 1960, có thể phát hành sách vào dịp Bác Hồ tròn 70 tuổi (19
- 5 - 1960). Hai ông Phạm Văn Bình và Nam Trân sau khi hoàn thành nhiệm
vụ, đã nộp bản thảo cho Viện Văn học.
Vào dịp kỷ niệm sinh nhật Bác Hồ năm ấy,
cuốn sách được phát hành rộng rãi. Ông Bình không thấy tên mình được
nhắc tới trong cuốn sách dịch, dù chỉ một lần. Ông Bình có hỏi ông Nam
Trân. Ông Nam Trân nói “có lẽ sơ suất tại Nhà xuất bản”.
Theo lời ông Vũ Kỳ, khoảng đầu năm 1960,
Văn phòng Phủ Chủ tịch có nhận được bản thảo tập “Nhật ký trong tù” đã
được dịch ra thơ quốc văn với đề nghị “Bác xem và cho ý kiến”. Ông Vũ Kỳ
vội mang trình với Bác, Bác không xem và bảo: “Chú đọc cho Bác nghe mấy
bài”. Ông Vũ Kỳ mở tình cờ mấy trang và đọc cho Bác nghe. Được 3 bài,
Bác ra hiệu ngừng và nói: “Thơ các chú dịch hay hơn thơ Bác”; rồi nói:
“Chú trả lại ngay cho nơi gửi”.
Sau đó các Nhà xuất bản Giáo dục, Đại
học và Trung học chuyên nghiệp dựa vào bản dịch năm 1960, hàng năm ấn
hành để dùng trong các nhà trường (Lần phát hành ấy, bản dịch chỉ có 114
bài, kể cả 1 bài không có trong “Ngục trung nhật ký” là bài “Mới ra tù
tập leo núi”. So với nguyên tác 133 bài, lần xuất bản năm 1960 đã để lại
20 bài).
Phải đến năm 1990, 1991 mới có những bản
dịch trọn vẹn 133 bài thơ trong “Ngục trung nhật ký” của Viện Văn học
và Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Riêng bản của Viện Văn học đưa thêm bài
“Tân xuất ngục, học đăng sơn” (Mới ra tù tập leo núi) vào trong tập
“Nhật ký trong tù” thành ra 134 bài. Việc dịch trọn vẹn “Ngục trung nhật
ký” là yêu cầu của đồng chí Trường Chinh khi ông là Chủ tịch nước. Bản
của Viện Văn học có bổ sung, sửa chữa một số bài. Bản của Nhà xuất bản
Khoa học xã hội có dịch lại gần ba phần tư các bài thơ đã dịch trước
đây.
“Nhật ký trong tù” phản ánh tâm hồn đại
trí, đại nhân, đại dũng của người chiến sĩ cách mạng không chịu khuất
phục trước kẻ thù. Nét nổi bật dễ nhận thấy nhất trong toàn bộ tác phẩm
là tinh thần yêu nước, lạc quan cách mạng, biến những điều trông thấy,
những cảnh khổ cực, đọa đày ở trong tù trở thành niềm tin, tinh thần
vươn lên khát khao đối với tự do, bình đẳng. Nó giá trị đặc biệt về nội
dung, tư tưởng và nghệ thuật diễn tả. Biết thêm về hành trình của nó,
chúng ta càng hiểu hơn, trân trọng hơn một tác phẩm độc đáo mà tác giả
chính là người anh hùng dân tộc vĩ đại, Danh nhân văn hóa – Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Nguồn: Phạm Duy Trưởng/ tranmygiong blog