- Trên thị trường đã có những cuốn
sách viết về việc học văn của các nhà văn. Còn việc dạy văn với họ thì
sao? Tìm lời giải cho câu hỏi này, chúng tôi mời bốn hội viên
Hội Nhà văn Việt Nam: Thai Sắc, Nguyễn Hoàng Sơn, Phạm Quang Trung,
Trần Quốc Toàn, những người đã từng dạy dưới trường, đã quản lí chuyên
môn ngữ văn trên sở và cả những người chưa từng cầm viên phấn – như nhà
thơ Nguyễn Hoàng Sơn - cùng bàn về cách cảm thụ, chỉ một truyện ngắn,
truyện Hai đứa trẻ trong sách giáo khoa Văn học 11 (tập 1). Bằng cách
làm này, VanVN.Net muốn tạo ra cầu nối giữa những nhà văn – người tạo ra
văn liệu giáo khoa với những thầy giáo người truyền tải văn liệu ấy.
PGS. TS. Phạm Quang Trung: LIỆU CHÚNG TA CÓ THỂ DỬNG DƯNG?
Kết thúc tác phẩm là giấc ngủ của Liên
"trong tĩnh mịch và đầy bóng tối”giữa cuộc đời chật hẹp như chiếc đèn
của chị Ty chỉ đủ "chiếu sáng một vùng đất nhỏ". Cuộc sống đơn điệu,
buồn tẻ, in hằn lên nếp sống, nếp nghĩ của trẻ thơ. Cái nhìn của Thạch
Lam thật tinh tường! Tấm lòng của Thạch Lam thật bao dung! Tác phẩm vang
lên lời kêu cứu. Vâng, hãy cứu tâm hồn nhỏ dại của trẻ thơ khi chưa quá
muộn. Đến giờ tiếng kêu khẩn thiết cất lên từ những năm 30 ấy vẫn còn
nguyên giá trị.
Vậy
là giá trị nội dung của Hai đứa trẻ thật lớn lao và đặc sắc. Cái hay là
ý nghĩa xã hội và tư tưởng cao sâu, độc đáo ấy lại được gửi gắm trong
một câu truyện đơn giản tới mức có thể nói là không có gì đặc biệt. Đó
là những câu chuyện sinh hoạt thường ngày của những người lao động lam
lũ xoay quanh quầy hàng tạp hóa của chị em Liên vào một buổi chiều tối
tại một phố huyện nơi có tuyến đường sắt từ Hà Nội đi qua. Đúng vậy,
rất đơn giản, tưởng như không có gì đáng nói, đáng nhớ. Thế nhưng tài
năng nghệ thuật dường như bắt đầu từ đấy. "Anh có một biệt tài quý giá
là tìm được ngọc trai trong bất kì rãnh nước nào”- một nhà thơ nói về
văn hào Anđécxen như vậy. Cái khó ở đây là phải phát hiện ra những điều
ẩn chứa bao ý nghĩa sâu xa. Không lấy làm lạ khi nhà văn đưa ta tới một
vùng quê vắng lặng vào một buổi chiều tàn dần chuyển sang đêm ngập tràn
bóng tối. Dựng cảnh, người viết dụng tâm đặc tả hai phương diện này: sự
buồn tẻ của âm thanh và sự tăm tối của không gian. Thật ra không phải
không có tiếng động và ánh sáng. Có điều, cùng với sự vận hành của thời
gian, cảnh tượng cứ nhạt dần, cứ vắng dần. Không có thì tương lai, tồn
tại trong các tác phẩm chủ yếu là thì hiện tại và một phần là quá khứ...
Sự tương phản giữa trước và nay, giữa chiều và đêm thật rõ. Trước kia,
phố chợ đông vui, sáng sủa hơn nhiều: "Ở sau ga, có mấy hàng cơm mở cửa
đón khách, đèn sáng cho đến nửa đêm". Còn giờ đây? "Họ đóng cửa cả
rồi... Im lặng và tối đen như ngoài phố". Đặc biệt là thực tại trong tâm
tưởng của Liên. Kí ức với cô là Hà Nội "sáng rực vui vẻ và huyên náo".
Hiện tại với cô là "đêm của đất quê và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang
và im lặng". Đáng buồn thay, con người hướng về không phải là ngày mai
mà là quá vãng của ngày hôm qua để mơ tưởng và tiếc nuối. Hôm nay khác
biệt với hôm trước, hôm trước nữa theo chiều suy giảm. Vẻ đông vui, nhộn
nhịp, sáng sủa, tươi tắn... tồn tại ở phía sau. Một quá khứ vàng son!
Mà đâu cần nhìn xa, giữa chiều và đêm cũng khác nhau nhiều lắm. Lúc chập
tối "các nhà đã lên đèn rồi, đèn treo trong nhà bác phó My...”để chưa
đến 9 giờ "tất cả phố sá trong huyện đều thu nhỏ lại nơi hàng nước của
chị Ty". Cuộc đời cứ thế mòn mỏi dần theo năm tháng. Người ta chỉ còn
biết đọc truyện cổ tích để tiếc nuối quá khứ và lãng quên hiện tại.
Nhìn nghe cho kĩ thì trong thời khắc
hiện tại không phải hoàn toàn im ắng và tối tăm. Có tiếng ếch kêu văng
vẳng theo gió từ ngoài đồng thổi vào; có tiếng cười khanh khách điên
khùng của bà cụ Thi; có tiếng đàn bầu của bác Sẩm bần bật trong yên
lặng... Đặc biệt tiếng đoàn tàu "sự hoạt động cuối cùng của đêm
khuya”rầm rập đi tới rồi lại rầm rập qua nhanh như "đã đem một chút thế
giới khác đi qua". Đó là âm thanh, còn ánh sáng? Có ngọn đèn lay động
trên chõng của chị Ty; chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng mất đi rồi lại hiện
ra của gánh phở bác Siêu đi trong đêm tối; và còn ngọn đèn vặn nhỏ như
hạt đậu thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa của Liên nữa. Và nếu
cần kể thêm thì phải kể tới những vệt sáng của những con đom đóm "bay là
là trên mặt đất hay len vào cành cây". Chấp chới và mơ hồ quá! Có sáng
chăng là vẻ lấp lánh của hàng ngàn ngôi sao trên bầu trời. Ánh sáng nơi
trời cao, xa xăm và cách biệt. Giá chỉ một màn đêm đen tối, một không
gian hoàn toàn tĩnh lặng có lẽ sẽ hơn chăng? Nhưng đó lại là cuộc sống
mà tuổi thơ của những Liên, của những An phải cam chịu, phải chấp nhận.
Sinh động mà bi đát, khắc khoải làm sao! Gấp truyện ngắn lại, tôi còn
như trông thấy bé An từ trong gian hàng nóng nực và đầy muỗi đi ra. Thế
rồi An ngồi xuống chiếc chõng tre, "chiếc chõng nan lún xuống và kêu cót
két". Cuộc sống sớm dấn thân vào những lo toan vật chất thường ngày đã
tác động tới tâm hồn trẻ thơ từ nhiều phía và làm cho chúng trở nên cằn
cỗi, trở nên vị kỉ - trẻ thơ không còn là trẻ thơ nữa. Mà qui luật của
cuộc đời lại vốn ngặt nghèo: hoa không mọc thì cỏ dại sẽ tươi tốt. Liệu
chúng ta có thể dửng dưng?
Nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn: “RẰNG HAY THÌ THẬT LÀ HAY”NHƯNG…
1/Truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, không hiểu
đương thời khi Thạch Lam công bố tác phẩm lần đầu (1937?) thì được công
chúng đánh giá như thế nào, nhưng 20 năm sau (1957) vẫn được Nguyễn Tuân
khen lắm. Nguyễn viết: “Truyện Hai đứa trẻ có một hương vị thật là man
mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng, đồng thời cũng dóng lên một
cái gì còn ở tương lại. Đây là một mẩu sinh hoạt hàng ngày và kéo dài
của hai chị em đứa trẻ thay mẹ trông nom một gian hàng vặt ở một cái phố
huyện, gần một cái ga xép. Đêm đêm có những bóng người bình thường lù
mù đi qua trước gian hàng. Những bóng người ấy cũng lù mù như nhiều
chấm lửa ở những nguồn ánh sáng quanh quất nơi phố huyện. Trong cái bốn
bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có những tiếng động mạnh và những luồng ánh
sáng mạnh của một chuyến xe lửa kéo qua hàng ngày. Hai chị em đứa trẻ
ngày nào cũng chờ một chuyến tàu đêm kéo qua rồi mới chịu đóng cửa hàng.
Nơi thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái
tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc
Hai đứa trẻ, thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu
kín”(Thạch Lam - Dưới bóng hoàng lan, Nxb Kim Đồng, 2/2006, tr
283-284). Nếu tôi nhớ không lầm thì thời điểm Nguyễn viết những lời này
(1957) là trước khi xảy ra vụ án Nhân văn Giai phẩm (1958), trong loạt
sách do ông Minh Đức xuất bản. Như vậy ta có thể tin vào sự thành thực
của Nguyễn.
2/Tôi đọc đi đọc lại truyện ngắn Hai đứa
trẻ, tất cả 4 lần. Lại đọc hết cả tập Dưới bóng hoàng lan và tập bút kí
Hà Nội băm sáu phố phường. Quả là người đọc không lầm, văn Thạch Lam có
số phận dài lâu hơn hai ông anh là Nhất Linh và Hoàng Đạo, dài lâu hơn
cả người cùng thời và cùng văn đoàn với ông là Khái Hưng? Chất thơ trong
văn Thạch Lam thật thấm thía “Chiều, chiều rồi. một chiều êm ả như ru,
văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng theo gió nhẹ đưa vào…” Đây
nữa “Trời đã bắt đầu vào đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua
gió mát. Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối. Các nhà đã
đóng im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, nhưng cửa chỉ để hé ra một
khe ánh sáng…” Thạch Lam rất biết mức độ, ông không đem những suy tưởng
của người lớn gán cho những đứa trẻ “Vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh
nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là trên mặt
đất hay len vào cành cây. An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao
để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Vũ trụ thăm thẳm
bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật và xa lạ và làm mỏi
trí nghĩ, nên chỉ một lát hai chị em lại cúi nhìn về mặt đất, về quãng
sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tý…”
Đọc đoạn văn này, tôi bỗng nhớ khi còn là một chú bé con, sau một đêm
đập lúa, cùng các ông chú ra tắm sông khuya, thường ngồi trên bờ cát,
ngắm bầu trời lồng lộng và chi chít sao , lòng hoang mang những suy nghĩ
không cùng…
3/Đọc lại truyện ngắn này, “rằng hay thì
thật là hay”, nhưng tôi không ngăn được câu hỏi: liệu các @ thời nay có
còn thích nó, như nhà văn lớn Nguyễn Tuân, như thế hệ tôi từng thích
hay không?
Nhà văn Thai Sắc: VÌ SAO TÊN TRUYỆN NGẮN KHÔNG LÀ HAI CHỊ EM?
Sự nhầm lẫn phải đính chính của nhà thơ
Trần Quốc Toàn trong email gửi cho tôi - gọi tên truyện ngắn nổi tiếng
của Thạch Lam là Hai chị em (tôi cũng đã gọi nhầm nhiều lần và nhiều bạn
dạy Văn khác băn khoăn cũng từng bị tổ trác như vậy!) - như một gợi
hứng tình cờ, xin viết đôi dòng, lạm bàn về lí do vì sao nhà văn của
những truyện ngắn trữ tình đượm buồn lại cắc cớ đặt tên là Hai đứa trẻ,
khiến dân văn chương thường gặp phải tình huống nhầm lẫn lạ kì ấy.
Quả thật, đọc toàn bộ văn bản truyện
ngắn, duy nhất một lần, Thạch Lam viết cụm danh từ hai đứa trẻ (ngoại
trừ một lần khác, ông gọi mấy đứa trẻ, nhưng để chỉ lũ trẻ nhặt rác
ngoài sân chợ). Còn lại, ông toàn dùng các cụm danh từ khác để gọi hai
nhân vật chính của truyện: hai chị em (14 lần); chị em Liên (03 lần); An
và Liên (03 lần); Liên và em (01 lần)…
Nếu luận lí một cách thông thường và
nông nổi, căn cứ vào tần suất xuất hiện cụm từ hai chị em, diễn biến cốt
truyện, sự phát triển tính cách chủ đạo của nhân vật, lối xưng hô mọi
người dành cho Liên…, tên truyện ngắn phải là Hai chị em mới có vẻ phù
hợp và sát thực. Vậy vì sao Thạch Lam lại đặt tên truyện ngắn của mình
là Hai đứa trẻ? Lí giải điều này không dễ chút nào, nếu suy diễn và áp
đặt một cách vu vơ, thiếu căn cứ, hóa ra chúng ta làm hại Thạch Lam hơn
là tôn vinh ông! Nhưng đây là một hiện tượng đặc biệt, chắc chắn ám ảnh
ít nhiều tín hiệu nghệ thuật nào đó, nên cần tìm hiểu đôi chút, những
mong sẽ khám phá được điều gì?
Nhân vật An, đích thực 100% là đứa trẻ,
thôi không bàn. Riêng nhân vật Liên, có thật là một trong hai đứa trẻ
không, cần thiết phải xem xét. Trước hết, ngay với Thạch Lam, trong thẳm
sâu cảm xúc nghệ thuật và ý tưởng sắp xếp câu chuyện, nhân vật, tình
tiết… dường như về mặt hình thức, ông coi Liên là một người lớn đúng
nghĩa. Bằng chứng là trong toàn bộ văn bản, ông đều gọi Liên hoặc bằng
tên hoặc bằng danh từ chị một cách trân trọng, nâng niu. Ở nhiều tình
tiết cốt truyện, Liên xuất hiện chững chạc và có chiều sâu của một người
lớn. Mở đầu tác phẩm, Liên không thể là một đứa trẻ khi không hiểu sao…
thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Chỉ có thể là
suy tư của một người lớn khi Liên mải ngồi nhìn phố quên mất lời mẹ dặn
đóng cửa hàng lúc có trống thu không, bởi mẹ đã coi Liên là người đáng
tin, giao cho Liên trông coi cửa hàng. Bản thân Liên cũng tỏ ra chị là
người con gái lớn và đảm đang. Cõi tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những
cảm giác mơ hồ không hiểu, trước đêm và thiên nhiên bí ẩn, hoàn toàn là
tâm hồn của một người lớn… Rồi lối xưng hô của mọi người với Liên cũng
là lối xưng hô với một người đồng đẳng: chị Tí gọi Liên bằng cô (như gọi
em gái chồng), cụ Thi gọi Liên bằng cô bé (như gọi một thiếu nữ thành
niên) hoặc em (như gọi một người em, tự xưng chị)… Nghĩa là, nói chung
mọi thứ liên quan đến nhân vật Liên trong truyện ngắn này, khiến độc giả
có rất ít khả năng cảm nhận nhân vật này như là một đứa trẻ, nếu chưa
đọc đoạn kết với tư cách đồng sáng tạo và không đọc đi đọc lại nhiều lần
để tìm ra ý tưởng sâu xa mà Thạch Lam gửi gắm ở đây cũng như nơi tên
tác phẩm.
Rõ ràng, Thạch Lam có dụng ý nghệ thuật
khi đặt tên truyện là Hai đứa trẻ mà không phải là Hai chị em. Thứ nhất,
Hai chị em không khu biệt một cách rõ rành độ tuổi vị thành niên của
hai nhân vật chính như Hai đứa trẻ - điều mà Thạch Lam muốn đụng đến và
gửi gắm ý tưởng sâu xa vào đây. Dù tác giả vẫn chỉ gọi nhân vật Liên như
một người lớn nhưng trong thẳm sâu trái tim ông, ông luôn muốn Liên vẫn
mãi là một đứa trẻ.
Vì sao vậy? Bởi vì, chỉ có thể là đứa
trẻ thì nhân vật Liên (cùng An) với tâm hồn trong trắng, giàu khát khao
vươn tới những gì mới mẻ, sáng sủa mới có thể tương phản hoàn toàn với
thế giới cũ mòn, già nua, tối tăm nơi phố chợ về đêm ấy. Chỉ có thể là
đứa trẻ thì nhân vật Liên (cùng An) mới có thể tạo ra sự thương xót, cảm
thông sâu sắc nơi tác giả cũng như từ độc giả về cảnh sống thanh bình
một cách cực nhọc, yên hàn một cách buồn bã và quẩn quanh, lặng lẽ của
một lớp tuổi thơ nông thôn thời ấy. Cho nên, ở đoạn sau của truyện ngắn,
thực ra việc chờ đoàn tàu có lẽ chủ yếu chỉ dành cho nhân vật An thì
cuối cùng, tác giả cũng phải đưa cả nhân vật Liên vào bằng một hành động
mạnh mẽ: Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua. Có thể nói, đây
là bóng dáng đứa trẻ ấn tượng nhất của nhân vật Liên mà Thạch Lam dựng
nên trong tác phẩm này. Nhân đây, một lần nữa, ta nhận ra qui luật vĩnh
cửu của tâm hồn con người: trong một người lớn bao giờ cũng có một đứa
trẻ tồn tại với những ước mơ hồn nhiên, trong sáng, thiêng liêng. Và cái
ranh giới người lớn - đứa trẻ thường khi rất mong manh, khó phân định,
nhất là ở độ tuổi vị thành niên, dậy thì…
Có thể thấy rõ tài dụng quân của Thạch
Lam ở truyện ngắn này qua mấy điều ghi ra ở trên. Cả tác phẩm, hai nhân
vật chính hầu hết được gọi là hai chị em, chị em Liên, An và Liên, Liên
và em… nhưng tên truyện ngắn phải cứ là Hai đứa trẻ. Bởi vì, ở đây tác
giả không chủ ý nêu cao chủ đề tình cảm con người (tình cảm chị em) mà
là tập trung vào ý tưởng mô tả chân dung thời cuộc (đời sống thấm đẫm
màu sắc bi kịch của con người, nhất là lớp trẻ thơ). Lí luận văn học một
thời gọi tên tác phẩm chính là chủ đề, đại ý hay gợi ý của toàn tác
phẩm là vậy!
Thông số ngữ dụng học khiến không ít
người ám ảnh và nhầm lẫn, đọc là Hai chị em. Xét kĩ mới thấy quả là siêu
phàm khi nhà văn đặt tên truyện ngắn này là Hai đứa trẻ.
Nhà văn Trần Quốc Toàn: PHÉP TỐI SÁNG TRÊN SÀN DIỄN TRUYỆN NGẮN
Thạch Lam chấm hết thiên truyện của mình
bằng hai chữ bóng tối: "...Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên
tĩnh như đêm ở trong phố tịch mịch và đầy bóng tối".
Bóng tối cũng chính là chữ, ngay từ
những dòng đầu của thiên truyện, ngay từ câu văn đầu tiên dành cho nhân
vật chính, tác giả đã gửi vào đôi mắt của chính nhân vật này như gieo
một mầm tư tưởng, như ém một phục bút: "...đôi mắt chị bóng tối ngập đầy
dần".
Từ đây, bóng tối sẽ ngập đầy dần cho tời khi đầy kín tác phẩm.
Thạch Lam đã chủ động nhốt, nén, dồn ép
nhân vật của mình vào bóng tối nghệ thuật để dễ bề thể hiện nỗi thèm
khát ánh sáng của họ. Trong nỗi khát thèm ấy, ánh sáng cao giá hẳn lên.
Chỉ một chút ánh sáng rơi xuống những hòn đá nhỏ một bên sáng một bên
tối cũng được nhìn thấy trên đường. Và hầu như mọi thứ làm ra ánh sáng ở
cái phố huyện ấy đều được tác giả huy động. Các loại đèn (đèn treo, đèn
Hoa Kỳ, đèn dây, đèn lồng, đèn ghi, đèn toa sau cùng). Bếp củi. Tàn
lửa. Những con đom đóm. Và dải Ngân hà... Thạch Lam chủ động như một đạo
diễn sân khấu, đã cắt đặt vai diễn đâu đó, còn chỉ đạo cả người phụ
trách ánh sáng tắt mở đúng lúc để chiếu rọi, che chắn tạo thêm đất diễn
cho nhân vật. Và thật là lí thú, qua tay người đạo diễn tài ba này,
chính ánh sáng và bóng tối cũng thành vai diễn.
Tất cả ánh sáng nhân tạo, thiên tạo đều
như vẽ ra những vạch đích khát vọng của những nhân vật chính và phụ, đều
là biểu tượng lấp lánh của ước mơ. Thứ tự đậm nhạt của tập hợp ánh
sánh ấy tạo ra cung bậc khác nhau của khát vọng, ước mơ. Hai đứa trẻ
(Liên, An và rõ nhất ở Liên) đã hướng khát vọng của mình tới nhiều cung
bậc, nhiều ngưỡng khác nhau, nhưng họ đành phải chấp nhận cái ngưỡng hợp
với sức mình, đó chỉ là chuyến tầu đêm mang lại chút quá khứ, cho dù
đó là một quá khứ sáng trưng và lấp lánh.
Trước đó, hai đứa trẻ chẳng đã thử hướng
ươc vọng tới một cõi họ chưa biết, hướng lên không gian xa vời như một
tương lai bí mật và xa lạ: "An và Liên ngước mắt lên nhìn các vì sao để
tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Vũ trụ thăm thẳm
bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật, xa lạ và làm mỏi mọi
trí nghĩ, nên chỉ một lát sau chị em lại cúi nhìn về mặt đất..."
Đọc đoạn trích trên, tới chữ mỏi vẫn cứ
tưởng tác giả tả thực, nhưng tới chữ cúi thì giật mình nhận ra, không
chỉ tả thực, đó còn là cái cúi đầu có chút gì sâu xa như tượng trưng,
quen quen như ước lệ. Trăm năm, nghìn năm trước, con người đã cúi trong
Đường thi Lý Bạch, và bây giờ đến lượt hai đứa trẻ của Thạch Lam:
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương
(Ngửng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê xưa)
Đê đầu tư cố hương
(Ngửng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê xưa)
Ngẩng đầu thì xa vời thế, cúi đầu lại
gặp một phố huyện tăm tối, một ga xép nhạt nhòe nơi có bà điên say và
gia đình bác xẩm, ngồi, rồi bò, rồi ngủ gục trên manh chiếu rách, đành
ngoảnh đầu như một giải pháp tình thế đón chuyến tầu hằng đêm mang về
một chút Hà Nội sáng rực và lấp lánh. Cho nên chuyến tầu ấy còi đã rít
lên vẫn chẳng lấn át được âm điệu buồn tẻ của thiên truyện đang chìm dần
vào bóng tối.
Nguồn Vanvn.net