- Bây giờ Hàn Mặc Tử nằm trên một điểm
cao Gành Ráng đối diện với bể Đông, bể chói loà như thơ Anh và giông bão
tựa đời Anh. Nằm với trăng sao như Anh từng mơ ước.
Với sao sương anh nằm chết như trăng
Dưới
kia là thành phố Qui Nhơn (những thành phố miền Trung thường có các nhà
thơ ở trong và biển mé ngoài) - thành phố của mẹ già nuôi anh "cơn lâm
luỵ vừa trải qua dưới thế", của chị Lễ "Chị cũng trăng mà em cũng
trăng", của em Hành đem cơm cho anh trong suốt bốn năm trời anh phung
hủi, và trước khi vào Quy Hoà để qua đời trong đó, nghe đâu, Tử đã sụp
lạy cảm ơn em. Qui Nhơn, thành phố của bạn bè, của bóng dáng tên tuổi
những người yêu, cũng là nơi Tử phải trốn chui trốn nhủi để khỏi bị bắt
đưa vào trại cùi trong núi. Nhưng Qui Nhơn đối với Nghĩa Bình, đối với
cả nước là nơi anh viết những trang thơ ngời chói, máu và nước mắt đời
anh đã khác xa, đã biến hoá, đã hoá kiếp, thăng hoa, kết tụ thành trăng
sao.
Chỉ có trăng sao là bất diệt
Cái gì khác thảy đi qua
Thôi cả cuộc đời bi thảm của Tử kia, dù
bi thảm đến đâu thì cũng đã trải qua rồi. Cái còn lại là những bài thơ
đã từ thời anh đi thẳng vào "thời đại lớn" (chữ của Báctin), rồi hôm nay
từ "thời đại lớn" ấy về với thời chúng ta.
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mò đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm
Bậy nào, sao lại không. Hôm nay có hàng vạn rồi hàng chục vạn tấm lòng đến cùng Tử đấy.
Tôi không muốn nhắc lại cuộc đời của Tử,
vì người ta đã viết thêm quá nhiều, và cũng viết bớt quá nhiều. Viết
bậy càn lắm lắm. Ở thành phố Hồ Chí Minh, trên xe buýt hiện nay, mỗi lần
tôi đi xuống phố lại được nghe Hàn Mặc Tử, tình nhân và bạn bè anh đang
ca vọng cổ, xuống xề trong các băng nhạc cũ lâm ly. Nói chi các quyển
sách, vở kịch, tranh truyền hình, tiểu thuyết nữa, khai thác, ly kỳ,
huyền thoại hoá đời anh, đến nỗi một tờ báo Sài Gòn cũ cũng không chịu
nổi phải kêu lên "Hàn Mặc Tử đã chết rồi, xin chớ giết ông lần nữa". Năm
ngoái, một nhà báo ở Hà Nội vào đến tận Qui Nhơn làm hai trang dài về
Quy Hoà còn viết bậy. Chả là trước khi đến thăm mộ Tử phải qua một cái
dốc, mà không hiểu sao ai đó đã chả nghiên cứu gì về Tử hết, lại đặt tên
là dốc Mộng Cầm. Nhà báo trung ương liền tự hào về "nhân dân ta đã biết
một người chung thuỷ". Theo nhà báo thì chị M.C đã về Quy Nhơn nuôi Tử
và "tuy yêu mà vẫn sợ nên nàng lấy một cái cặp dài, cặp một loong cơm mà
đưa cho thi sĩ. Thi sĩ không tự tử là may lắm". Cậu thi sĩ không tự tử
là may lắm không phải là câu tôi bình luận nhà báo kia đâu. Chính là của
nhà báo đề cao người yêu Tử đấy. Thì ra cái vị báo này không đọc sách,
nghe cải lương và xem báo nữa kia.
Tôi không trở lại đời riêng của Tử, ai
đã yêu Anh ngắn ngày, ai đã yêu Anh dài hạn, và ai Anh chỉ yêu cái bóng,
ai Anh yêu cái tên vì chưa thấy mặt bao giờ. Tôi nghĩ bây giờ sống dậy,
gặp tất cả những người đẹp ấy, chắc có lẽ anh đều biết ơn, người này
cho anh ân nghĩa, người kia cho anh vết thương, và chính vì từ vết
thương mà con trai đáy bể làm ra viên ngọc. Tôi cũng không vào cuộc đời
(gọi là cách mạng đi) của Tử.
... Cuộc đời cách mạng, mà Anh không tự
biết là cách mạng ấy, còn dài hơn cả thời gian Rumbaud, Verlaine,
Baudelaire và cả Hugo tham gia Ba Lê Công xã Pháp, Tử, biệt hiệu Phong
Trần, từ những năm 30-31 đã được cụ Phan Bội Châu ca ngợi, hoạ thơ cùng.
Cụ viết đại ý "Tử về nước đến nay, được xem nhiều thơ văn quốc âm song
chưa được bài nào hay đến thế. Hồng nam nhạn bắc, ước ao có ngày gặp gỡ
bắt tay cười to một tiếng cho thoả hồn thơ đó". Tử đã ra Huế thăm cụ bị
mật thám Pháp theo dõi, và do thế bị gạch tên trong danh sách những
người đi Pháp học. Vào Sài Gòn làm báo, Tử dịch thơ tình của Mác, bênh
vực Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan. Về Qui Nhơn, khi cớm có bệnh hiểm
nghèo, cuối 1936 Tử đã cộng tác cùng anh Nguyễn Minh Vỹ, đảng viên Cộng
sản vừa ở tù ra, in giai phẩm Nắng xuân trong ấy có bài Ông Nghị gật, Tử
đánh vào viện dân biểu thời Pháp thuộc.
Cho dù Hàn Mặc Tử có cuộc đời bệnh tật,
cuộc đời tình duyên, cuộc đời cách mạng ly kỳ, dữ dội gấp trăm lần,
nhưng ba hòn núi cao ấy chụm lại không đẻ ra được một cái cây, một bóng
mát thơ nào, ba hòn núi ấy không đẻ ra được con chuột nhắt thơ nào thì
việc gì ở đây ta cũng phải dông dài. May thay Tử là một đỉnh cao, loà
chói trong văn học của thế kỷ, thậm chí qua các thế kỷ. Cho nên cũng
không mất công đâu khi vì văn Anh mà tìm hiểu thân thế, đời Anh.
Hàn Mặc Tử có tài rất sớm. Tản Đà đã
định khen thơ Anh trên báo nhưng rồi tiên sinh qua đời. Làm một bài như
bài Cửa sổ đêm khuya đọc lui, đọc ngược sáu cách, Tử rất giỏi:
Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương
Lạ cảnh buồn thêm nợ vấn vương
Tha thướt liễu in hồ gợn bóng
Hững hờ mai thoảng gió đưa hương
Xa người nhớ cảnh tình lai láng
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yến ngàn dâu ủ lá
Hoạ đàn sẵn có dế bên tường.
Đọc xuôi, đọc ngược, bỏ hai chữ đầu đọc
xuôi, bỏ hai chữ cuối đọc xuôi, bỏ hai chữ đầu đọc ngược, bỏ hai chữ
cuối đọc ngược. Tử làm bài ấy lúc 17, 18 tuổi, cũng là một cách xem
thường tài vua Tự Đức "chả mấy giỏi" hơn mình. Sau này, có lúc Tử tự xem
mình là "vua nhà Nguyễn (Nguyễn Trọng Trí là tên Anh) bay trên mây",
cái mầm mống phạm thượng biết đâu không bắt đầu từ lúc làm thơ thuận -
nghịch - độc ấy.
Tử có rất sớm, trong khuôn khổ gò bó
trói voi bỏ rọ của thơ Đường luật mà có, cái khả năng Thương - thanh -
khí hoá (tên một tập thơ của Anh về sau), tâm thưởng tâm hồn hoá:
Tương tư mộng thấy năm canh mộng
Luyến ái trời vương bốn phía trời
Cái khả năng thế - tục - hoá, da - thịt - hoá:
Bóng nguyệt leo song, sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn
Khả năng kỳ ảo, ma - quái - hoá cũng xuất hiện rồi:
Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt
Khép phòng đốt nến, nến rơi châu
Đấy không phải là thủ thuật, kỹ thuật,
những cách bên ngoài. Hoặc, nếu là thế thì cũng nhờ có một cái cốt thế
nào đó, một cấu trúc tâm hồn thế nào đó ở bên trong. Hàn Mặc Tử, lúc ấy
còn lấy tên Phong Trần, tên Lệ Thanh, đi về, qua lại giữa trời và đất,
cảnh và người, thực và hư... rất thoải mái. Hơi văn lúc thì thu cả cảnh
vật vào trong đám chữ "Ngàn trăng bóng liễu trông xanh ngắt", lúc thì
văn chương chữ nghĩa tuột ra khỏi lòng như một tiếng kêu, một ngọn gió,
nhát dao: "Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt". Năng lực đàn hồi ấy cũng khá
rõ ràng. Nhưng phải có cơn bão máu, trận hồng thuỷ tai ương, những động
đất tâm hồn, những phun lửa tình yêu kinh khủng về sau, thì cái khả
năng kia mới lên cái thế bình thương, rồi lập phương như ta thấy. Từ
1936 đến 1940, nghĩa là sau khi rời Sài Bòn, ra Gái quê, về Qui Nhơn thọ
bệnh, cho đến lúc vào Qui Hoà và mất, Anh đã làm quá trình một thế kỷ
về thơ (1935-1939 cũng là thời kỳ tôi học ở Qui Nhơn, giới thiệu dìu dắt
tôi vào thơ là công Anh lúc đó). Từ một nhà thơ biền ngẫu theo lối cổ
phương Đông. Anh đã hiện đại như những nhà thơ hiện đại nhất châu Âu.
(Chỉ so với André Breton, ông tổ siêu thực không thôi cũng đủ thấy rõ).
Hơn nữa, thiên hạ hiện đại bằng óc, bằng lời còn Anh thì bằng máu:
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra
Văn học cần nói những vẫn đề chung, phổ
biến cho nhân loại. Nhưng oái oăm chưa, nó lại đòi cái người nói đó là
một cá nhân, một bản lĩnh, một sắc thái riêng, không giống ai, chỉ có
một bản duy nhất, không lặp lại hai lần. (Nói thế chứ trong văn học
người ta vẫn na ná nhau khối ra đấy!)) Hàn Mặc Tử thì không. Anh chỉ có
một, thật. Như một Rimbaud của Pháp, một Holderlin của Đức, một
Maiakovxky (trước cũng như sau Cách mạng tháng Mười) của Liên Xô.
Chúng ta cần có người tả trăng là trăng.
Nhưng cũng có người vượt lẽ thói tập đoàn mà xẻ trăng ra làm hai nửa:
Vâng trăng ai xẻ làm đôi (Kiều). Cần truyền thống lại cũng cần biến dị,
ta nghèo đi cái điều đặc biệt, duy nhất người ấy nói ra).
Hôm nay có một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi
Ta nhớ mình xa thêm đứt ruột
Không phải ma thuật, kỹ thuật gì của óc
đang lạm phát ngôn từ. Lòng có bị cắn đôi, đời có bị tan vỡ, tình có bị
đứt đoạn, nghĩa là có một thảm sứ gì làm trữ kim, làm đảm bảo, thì mới
có thể phát ra các từ kia.
Người Trung Quốc xưa đánh giá thơ nào
thâm, nào chân, nào viễn, nào cao, nào tàn, nhiều thứ lắm. Tân là mới.
Nhưng sau tân, lại còn tân của tân nữa, đó là kỳ (lạ).
Tóc dài ba nghìn trang
Vì sầu nên hoá dài
(Lý Bạch)
Bốn dây ứa máu Tỳ bà
(Tương An)
Và đêm nay hồn anh về ngủ thắt lưng em
(Ca dao H'mông)
Mái nhà dài như một tiếng chiêng. Tóc
nàng dài đến nỗi thả ra thì xuống tận đất như một thác nước và che bóng
râm như một cây K'nia
(Dân ca Tây nguyên)
hay khi Nguyễn Du tả ma:
Dầu dày từng bước in rêu rành rành
thì đều là kỳ đấy, đều là siêu đấy! Mà nào ta có mất thực đi đâu. Ta được nó một cách khác, ở một nhiệt độ, cường độ khác.
Người châu Âu đẩy cái kỳ đến cùng, và kỳ
cùng chủ thì từ yếu tố nó thành chủ nghĩa. Chủ nghĩa siêu thực còn có
tên là romantisme juisgu'au bout (chủ nghĩa lãng mạn đến cùng), rượu
trên 100 độ. Thế là chết. Chúng ta chống chủ nghĩa siêu thực, chống siêu
thực ở dạng ấy, ở độ ấy, trương lên thành ngọn cờ tướng chỉ huy ấy.
Aragon Eluard, các vị tổ sư, tướng lĩnh từng phất ngọn cờ ấy, đã vứt nó,
để trở thành người lính, rồi chủ soái trên thi đàn hiện thực xã hội chủ
nghĩa. Nhưng khi đã thành nguyên soái của thi đàn sau này, các ông vẫn
sử dụng các yếu tố siêu thực, sử dụng siêu thực như yếu tố, cho cái hư
ảo nó phục vụ hiện thực mình, và sung mãn hơn lên vì vậy: Chân chân
chân, thật thật thật, nhưng lại còn đi với ảo ảo ảo nữa, Diệu ơi! Hàn
Mặc Tử không phải là nhà thơ siêu thực. Trước sau Anh vẫn là lãng mạn,
dùng nhiều yếu tố hiện thực, dùng nhiều yếu tố siêu thực: đó cũng là
điều trước đây cha ông đã dùng. Nhưng chưa có ai dùng đậm đặc như Anh.
Dù đó là Lê Thánh Tông ở Di thảo, Nguyễn Dữ ở Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn
Du ở Chiêu hồn hay lúc tả Đạm Tiên. Sau này khônig biết có ai thừa kế
Anh không? Cho nên nhìn trước nhìn sau, Anh là của hiếm ở đất nước luôn
luôn cần tỉnh thức nên hoá ra quá tỉnh táo là đất nước mình. Trên thế
giới thì lại khác! Cần chống lại với cái không khí duy lý đến cùng, duy
lý đến cùn, duy lý quá quắt của thời đại máy móc, kỹ thuật, biểu đồ,
thống kê, công thức này. Các nhà văn châu Âu hiện nay rất mê chủ nghĩa
hiện thực kỳ ảo của châu Mỹ la tinh, trong đó các yếu tố kỳ, hư ảo, ma
quái, huyền thoại, siêu thực đã được phát huy để nuôi hiện thực.
Asturias, Carpentier, Marquez đã được đánh giá cao và hâm mộ ở Liên Xô.
Tử trong thời gian chúng tôi gần chỉ thấy Anh nói về Baudelaire, chớ
Lautre'amont, Ge'rard de Neerval Anh cũng ít nói đến, nói chi là Breton.
anh có biết hay không chủ nghĩa siêu thực? Chắc là không. Giờ bảo Anh
có xa gần với cái họ hàng đầy biên động, thích biến dị, luôn biến hoá
đó, có khi anh giận cũng nên! Anh chỉ nói:
Một mai tôi chết bên khe Ngọc Tuyền
Bây giờ tôi dại tôi điên
Chắp tay tôi lạy cả miền không gian
hay
Tôi điên tôi nói như người dại
Van lạy không gian xoá những ngày
Và anh giải thích vì đâu mà điên, bởi
đâu mà dại: "nghĩa là tôi yếu đuối quá. Tôi bị cám dỗ. Tôi phản lại tất
cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. Và
nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên. Nàng đánh tôi đau quá. Tôi bật
ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú".
Càng chứng tỏ là siêu thực của Anh không
phải từ sách vở ra, từ châu Âu đến, mà từ thảm kịch cảu Anh mà ra.
"Nàng" ở đây không phải là cô con gái nào đâu! Nàng đau thương đấy. Tử
thường đọc Baudelaire:
Sois sage ô ma douleur et tiens - toi plus tranquille
(Hãy ngoan hỡi em đau thương và em đứng yên nào!).
Tử bảo Anh khóc, Anh gào, Anh rú. Tử quên mất (và chúng ta cũng quên theo) là Anh cười nữa chứ.
Ha ha! Ta đuổi theo trăng
Ta đuổi theo trăng
Trăng rơi lả tả ngả trên cành vàng
hoặc
Hôm nay vui quá anh Phùng ơi
Cười nói làm sao cho hả hơi
Mà cười được thế là không điên đâu, chả
dại chút nào! Anh chả thèm làm nhà thơ của sự chết, của Hư vô, như những
người viện Heiđeger, viện Jaspeers, rồi dán cho anh nhãn hiệu có dấu
âm, có hơi âm đấy.
Đầu câu bên này là tiếng cười ha ha, đầu
câu bên kia lại là một cuộc đời bi thảm vào bậc nhất. Giá tiếng cười ấy
đắt lắm, nặng đồng cân lắm, chứ đâu phải thứ nhởn nhơ cười, hể hả cười
của chúng ta đâu.
Xin dâng này máu đang tươi
Này đây tiếng khóc giọng cười chen nhau
Ta có chịu nghe tiếng cười đắt giá đó
không? Và có khôn lỏi ném tiếng khóc kia đi, hắt cái máu kia đi, chỉ lọc
lấy có tiếng cười đưa vào Tuyển tập, đã vô trùng hoá. Nhưng lại nghe
tiếng khóc kia, thì ta có bị nhiễm độc gì không? Ngược lại, giữ gìn bịt
tai không nghe nó, thì ta có bị thiệt thòi gì?...
Ồ mấy chục năm trời đánh nhau với những
tên giặc quỷ sứ khổng lồ, ta lắm lúc phải trị lấy ta rồi mới đánh được
giặc. Luyện chúng ta từ bùn, từ bùn thành ra sắt thép là vô cùng cần
thiết. Nhưng xong giặc rồi, cậu bé Phù Đổng, phải nhanh chóng trở lại
làm hồn nhiên con trẻ chứ. Thế thì mới đủ sức hoá thành sắt thép kỳ sau.
Đó là quy luật ức chế và hưng phấn của Pavlov thôi, chả có gì lạ.
Những năm tháng trọng đại đó, ta cần
tỉnh thức nên sợ cả mộng mơ thiếp ngủ. Chỉ chợp mắt một tý thôi, có khi
đê vỡ, giặc tràn. Huống nữa là cái đê tư tưởng! Đồng chí Lê Duẩn bảo:
"Nhiều người, hai người, một người, cá nhân, lứa đôi, tập thể". Những
năm ấy, không có tập thể, nhiều người thì mất mạng, nên có khi ta cảnh
giác lúc chỉ có hai người, lúc trơ trọi một người. Tố Hữu mới viết: "Đêm
cuối năm riêng một ngọn đèn" thì đã có nhiều người không muốn có riêng
và một ấy. Con người ta thích nó giữa đội - hình đồng - đội, tập đoàn,
hơn thế lại là đội - hình - đang - chiến - đấu, và tập - đoàn - đang -
sản - xuất. Ta ưa nó ở thế động, hành động, lao động với tất cả ý chí,
reo hò, vỗ tay đôm đốp, và ta ngại nó khi tĩnh lặng, khi xúc cảm. Có xúc
cảm thì cũng là xúc cảm phấn khởi, chữ hay chi cái xúc cảm buồn! Ôi, Tử
ơi, thế mà Tử lại cùng cực đau buồn:
Ta trút linh hồn giữa lúc đây
Gió sầu vô hạn thổi trong cây
Còn em sao chẳng hay gì cả
Ta không hay, hoặc là không muốn hay,
không dám hay. Ta không hay rằng con người gồm các vấn đề xã hội lịch sử
mà ta quan tâm trước tiên là rất đúng, lại còn mỗi con người có một
thân phận, một cuộc đời riêng. Mác hơn Karl Jaspers chỉ biết con người
trong đau khổ, trong chiến đấu, trong tội lỗi, và đối diện cùng cái
chết. Theo ông, đó là các điểm "cực" của kiếp người. Con người theo ông
chỉ dao động thăng trầm giữa yêu thương và thù hận. Mác cũng cao hơn
Phật, chỉ thấy sinh, lão, bệnh, tử và dao động thăng trầm bởi vô - thĩ
tham sân si. Ôi, chết có tiên thì cũng sướng đấy. Bệnh mà thuộc một giai
cáp quý tộc giàu sang thì cũng khỏi bệnh ngay.
Trăm năm trong cõi người ta, "hữu" tại
thế, tại cõi thế này thì không phải chỉ sinh khổ, bệnh khổ, lão khổ, tử
khổ mà còn không tiền nên khổ. Khổ vì tư bản, và tột cùng của chủ nghĩa
tư bản là đế quốc, là nơtơrôn đó. Nhưng chỉ biết "tổng hoà các quan hệ
xã hội" thì không hiểu Mác. Mác bảo: "Cái gì thuộc về người, với tôi đều
không xa lạ". Thế mà Tử yêu, Tử đau, Tử bệnh tật, Tử ở trong cô đơn, Tử
đối diện cùng cái chết, lại xa lạ với ta ư? Thảo nào Aragon hỏi :"Trăm
năm sau người ta có biết Baudelaire không nhỉ". Và ông nổi cáu: Nếu
người ta không biết Baudelaire thì cần có gì biết đến người ta"
Đo từ ngọn cỏ tới cung trăng
Những sợi hào quang vạn thước vàng
Bắt bắt thơ bay trong gió loạn
Để xem tình - tứ nặng bao cân
Ồ, tại sao tôi lại hình dung ra những
nhà phi hành vũ trụ của ta như Phạm Tuân có thể đọc các câu ấy. Ở cái
thời điểm này của nhân loại mà cái chết khinh khí nhiệt hạch có thể đến
mọi nhà, mà chuyện cái thiên hà trăng sao cũng là chuyện của các cháu bé
cấp một, thế thì Hàn Mặc Tử đâu có lạc lõng gì.
Trở lại vấn đề con người một tí. Vì nói
gì thì nói, ở đâu, thơ văn nào, cũng là chuyện về nó đấy thôi. Một quyển
sách nổi tiếng trên thế giới tên là "người, kẻ chưa ai biết ấy". Cố
nhiên là biết, nhưng mới ở vòng ngoài. Nhìn ngoài nó liền một cục. Nhưng
mà nó có một đâu. Khoa học bảo nó là hai ghép lại. Anne de Noailles thì
bảo nó là vô số Coeu Innombrable nữa kia. Cố nhiên là ở nội tâm. Nói
Cao Bá Nhạ tìm thấy "trong một mình bảy tám biệt ly" nghĩa là vẫn không
phải là Một. Ở người, dưới nó còn có nó, bên cạnh nó lại có nó, đằng sau
nó còn có nó (mà nó ngờ yêu tinh).
Bóng ai theo dõi bóng mình
Bóng nàng yêu tinh
Nụ cười như tiếng vỡ pha lê.
Hãy đi sâu vào thơ Tử, vào một tế bào
của thơ Anh một chút. Gần năm mươi năm nay, ta đã động gì đán Anh đâu.
Không khéo thì đây là dịp đầu tiên mất. Về vấn đề mình và ai, một mình
hay hai mình đó, có lúc Tử viết:
Lụa trời ai dệt với ai căng
Ai thả chim bay đến Quảng Hàn
Kìa ai gánh máu đi trên tuyết
Và ở một bài khác:
Ai đi lẳng lặng trên làn nước,
Với lại ai ngồi khít cạnh tôi
Mà sao ngậm cứng thơ đầy miệng
Không nói không rằng nín cả hơi
L'homme cet inconnu, người, cái kẻ bí
mật ta chưa biết hết ấy đây Hàn Mặc Tử đã kể cho Quách Tấn. Quách Tấn đã
viết lên trên báo. Vì đây là một hiện tượng rất thật: Một đêm khuya
vắng, một mình Tử còn ngồi ngắm trăng trên bể. Bỗng Anh thấy có một ai
đó ngồi khít rịt bên Anh. Rồi từ người đó lại hiện ra người nữa. Rồi
biến đi. Rồi thấy mặt bể đông lại như Tuyết. Trên bể có một người vạm vỡ
mặc áo lông gánh hai thùng thiếc chạy băng băng. Từ hai thùng tung toé
ra những máu là máu. Tử hoảng sợ chạy về nhà.
Raineer Maria Pilke, thi hào Tiệp và của
cả thế giới kỷ này, khi viết Bi ca đo Đuynô (Ele'gie de Duino) đã chú
thích: "đọc bởi một kẻ vô hình". Hoàng Trung Thông năm ngoái bảo tôi:
"Mình uống rượu nhiều nên bị bệnh huyễn tưởng, mình nghe ai nói trong
quạt máy" (Xin nói là anh vẫn cứ viết hay như thường, như thường) "Bệnh
tâm thần", ta vội kết luận. Và đưa nó cho các nhà y học, phân tâm học.
Hãy dừng lại đã. Tôi nhớ một ví dụ mà các nhà hiện tượng luận đồ đệ
Husserl hay nhắc. Có một bệnh nhân nghe tiếng nói kiểu ấy. Bác sĩ không
tin. Người bệnh cáu: "Tin hay không mặc ông, nhưng rõ ràng tôi nghe
thấy". Các vở kịch viết về Jeanne d'Arê của Pháp đâu có loại việc nữ anh
hùng "nghe" như trên. Mặc kệ y học, về thơ ta hãy thử đếm xỉa đến hiện
tượng ấy. Nó là gì? Vì Tử đau yếu chăng! Không, theo tôi chính là Anh
rất khoẻ, cái hồn thơ Anh rất khoẻ. Chả là cô đơn, chả là Hư Vô, chả là
cái chết chập chờn ở trong phòng bệnh, và ở giữa đêm tăng này muốn thủ
tiêu Anh mà không được. Anh là Một. Nó muốn zéro - hoá Anh, hư vô hoá
Anh cho không còn dấu vết. Nhưung anh đâu chịu thua. Anh hoà hai, hoà
ba, mình ngồi cạnh mình, hơn thế mình lại vạm vỡ ra, nở nang lên, gánh
chạy, gánh cái gánh máu đời mình, chạy trên cái bể thảm kịch của đời
mình. Cũng là một cách đối chọi! Hơn gấp trăm lần cái phương pháp ngắm
bóng mình dưới giếng nước của Narcisse đến héo mòn, huỷ diệt đi không
còn tồn tại ở kiếp người.
Nếu ta hiểu cho sự đối phó ấy của Tử thì
Hồn anh chả có gì hồn ma, bóng quỷ, hay là cái linh hồn của Chúa thổi
vào, trong đất sét là ta: "Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng". Hồn, đó là
sản phẩm Anh tạo ra. Tạo ra, lại còn dắt nó đi chơi nữa: "Dẫn hồn đi
ròng rã một đêm nay". Anh có bạn. Hàn Mặc Tử không còn thụ động là sản
phẩm trong bàn tay Thượng đế, tự Anh, Anh đã chủ động, đóng vai Thượng
đế, hơi phạm thượng đấy, nhưng vui chứ, đỡ cô đơn chứ. Khạc hồn ra, "cho
hồn cao văng lên muôn trượng" bằng Miệng, cái cơ quan sử dụng Lời, Ngôn
ngữ:
Anh lại còn khạc ra nhan sắc, người yêu:
Cả miệng ta là trăng là trăng
Cả lòng ta vô số gái hồng nhan
Ta nhả ra đây một nàng
Cho mây lặng lờ cho nước ngất ngây.
Và bỗng dưng từ thơ, tôi nhớ đến khoa
học, đến nhà khoa học vĩ đại của nhân loại Einstein. Ông nói: "Cái điều
đẹp nhất mà ta có thể cảm giác được chính là cái khía cạnh huyền bí của
cuộc đời. Đó là tình cảm sâu xa ở trong nôi của nghệ thuật và khoa học
thật sự". Nhà khoa học thật sự tương đối yêu sự diệu huyền và nuôi đứa
trẻ ấy trong nôi, thế sao ta, nhà văn nghệ còn bấp bênh lại muốn tuyệt
đối chỉ yêu cái gì một là một, hai là hai rõ ràng, chứ không thể một vẫn
là hai được?
Tôi đã có một kết luận kỳ cục, ngược đời
nữa. Hình như trước cách mạng, cả nước đau thương, mà thêm một giọt đau
thương của Tử thì thuyền đau thương ta nặng quá, và chìm vào bể đau
thương mất! Cả cuộc đời ở trong vòng nô lệ, thì cái huyền diệu cần
thiết, cần kíp nhất lúc ấy là phá cái vòng ấy để giải phóng mình, chứ
huyền diệu, diệu huyền "lên bến sông Ngân giặt lụa chơi", "nước biến
thành trăng trăng ra nước" thì là thoát ly nguy hiểm... Ấy, nhưng bây
giờ, bây giờ thì lại khác. Thập vạn hùng binh của ta đã quét sạch các
thứ đế quốc đến đây. Ta quyền lực, ta oai hùng mà bịt tai lại không nghe
tiếng kêu khóc kia, khép mắt lại không nhìn sự diệu huyền kia thì nguy
hiểm! Biết đâu ở đầu đường chỉ là sự tự tin ở sức khoẻ mình, sức lực
mình, mà rồi chủ quan, mà rồi lãnh đạm mà rồi vô tâm, mà rồi quan
liêu.... và cuối cùng là sự xơ cứng động mạch bạo tàn. Con mắt chớp chớp
để ngạc nhiên, con mắt long lanh để khóc cần lắm chứ. Chứ phải đâu chỉ
có con mắt tỉnh thức, tỉnh táo, cảnh giác, trừng trừng. Nhà tiểu thuyết
lớn Liên Xô, Bônđarep nói về sứ mệnh của nhà văn là: bằng những giây
thần kinh lòi trần, họ cảm nhận nỗi đau của những người khác và truyền
cho đồng loại những tín hiệu về sự khốn cùng phải cứu giúp nhau". Tín
hiệu S.O.S của Tử không phải chỉ cứu Hàn Mặc Tử! Chết rồi, anh cần gì!
Cứu chúng ta đấy chứ. "Người dưới vực sâu vẫn cứu kẻ trên bờ". Cứu ta
khỏi sự chết cứng dày da, giảm sút xúc cảm, giảm sút nhân tính, nhân
tình... Đừng sợ nó làm cho ta thoát ly. Đọc đi, bạn sẽ thấy nó làm cho
ta thoát chứ không ly, ta thanh thoát, ồ, phải đấy, nó có tác dụng tẩy
rửa và thanh lọc.
Có nhiều ngộ nhận cho đến nay về Tử.
Rằng Anh là tiếng nói của tôn giáo, của Thiên Chúa giáo. Có thì cũng chả
sao! Các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu, đứng đầu là Liên Xô, khi tiếp
thu di sản quá khứ thì ba phần tư các tác phẩm xưa là của nhà văn hay
nói đến Thượng đế. Và ta chả tiếp thu thơ các nhà sư, sư tổ nữa, đời
Trần, đời Lý đó sao? Cố nhiên là Hàn Mặc Tử yêu Chúa, nguồn động viên
lớn, vô cùng lớn với Anh trong bước ngặt nghèo. Nhưng khi Anh viết bài
Thánh nữ đồng trinh Maria:
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lâm luỵ vừa trải qua dưới trần thế
là Anh vừa viết cho Mẹ trên trời vừa cho
Mẹ Anh dưới đất. "Mẹ ơi, con sắp chết nay mai. Con không sợ chết mẹ ạ.
Nhưng nghĩ rằng con sẽ phải rời bỏ mẹ, con đau lòng quá". Tôi nhớ cái
lời thư ấy. Tử là người con rất có hiếu. Tử cũng từng vì chị Lễ trong
bài thơ văn xuôi tuyệt vời như thuỷ tinh Chơi giữa mùa trăng: chị "thanh
thoát tinh khôi, uy nghi và tươi tốt như pho tượng Đức bà Maria".
Chuyện dưới đất thành ra chuyện trên trời. Một người công giáo chính
tông không thể viết: "ở đời chỉ có một hạnh phúc, làm chi có hai cảnh
Tịnh độ và Niết bàn". Lên cao trên Thượng thanh khí, Tử ít gặp thiên
thần mà lại hay gặp các Nàng Tiên đang tắm "Và đôi môi biểu lộ hết xuân
tình". Đừng đưa Anh lên cao, nhưng cũng xin đừng lợi dụng Freud, lợi
dụng phân tâm học, hạ anh xuống một nhà thơ xác thịt. Chính thế tục
trong anh, cái sức nặng của sự sống có hồn và có thân thế ấy đã níu Anh
lại, không cho Anh đứt dây bay hút vào cõi Siêu hình. Vả chăng Anh thế
chứ đâu có tục! Khi ta thích "Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên" của
Nguyễn Du, ta phải thích "Ơ kìa bóng nguyệt trần truồng tắm" của Anh.
Chả lẽ cô Hồ Xuân Hương có quyền mà bóng trăng Anh thì bị cấm!
Cũng không nên nấp sau lưng của
Heiddger, nói Anh là nhà thơ của vô vọng thời gian, con người bị cuốn
hút vào hư vô vào cõi chết. Ai mà chả là nhà thơ của thời gian, vì ai mà
không bị cuốn trong dòng sông âm thầm hay xiết chảy đó? Nhưng ngược đời
chưa, Hàn Mặc Tử lại bước vào không gian đấy:
Chắp tay tôi lạy cả miền không gian
... Van lạy không gian xoá những ngày
Băn khoăn của Anh không phải là lúc nào, mà ở đâu:
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu
Còn Hư Vô, còn sự chết? Biết mình đang chết, sẽ chết, thế mà:
Ta đi bắt nắng ngừng nắng reo nắng cháy
Trên sóng cành, sóng lá, cô gì má đỏ hây hây
Ta rình nghe niềm ý bâng khuâng trong gió lãng
Với là hơi thở nồng nàn của tuổi thơ ngây
Hỡi người đang sống, ta thừa sức sống, đang dồi dào sinh lực như chúng ta, có "làm" được dăm câu như vậy không?
Vạn tuế, bay đi, nắng rợp trời.
Tung hô nắng, mà bay ơi, đủ biết Anh
không đứng vào hàng các cụ già đang sắp hàng lục khụ chờ giờ báo tử. Kìa
Anh đang chạy reo trong sân, trong nắng ngoài kia! "Bay ơi, nắng".
Ai đó bảo "Người ta không giải thích một
người đang giận (hay đang điên thì cũng thế), người ta hiểu anh ta
thôi. Có khi chỉ hiểu cũng chưa đủ. Phải cảm. Dùng ý thức để giải thích,
để hiểu chưa được thì phải huy động cái vốn liếng tiềm thức, kinh
nghiệm, trực giác, kỷ niệm... mà bao trùm cảm một cái xem sao.
Trăng, trăng, trăng là trăng, trăng, trăng
Thế là tận cùng của sự dễ hiểu rồi, có
gì, còn gì để giải thích nữa? Ấy thế nhưng cảm cho được cái nhịp điệu
tăng, tăng, tăng, như tiếng trăng chạm vào tâm hồn, tăng, tăng, tăng như
cái ngân vang của tâm hồn không dứt, thế là lại bí mật, lại huyền diệu
rồi! Đọc Hàn Mặc Tử là như vậy. Có khi đọc từng câu, từng ý, cầm từng bộ
phận lên ta không hiểu. Nhưng ào đi, đọc một hơi cả bài, để cho nó cuốn
ta đi trong dòng chảy của nó, cảm cho hết cái hồn, cái khí lực, cái
không khí, cái nhịp điệu toàn bài, vâng toàn bài, thì ta lại "ngộ" ra.
Cái rung động nhờ cảm toàn bài giúp ta quay lại hiểu được từng chữ, từng
câu, từng bộ phận. Bị truy kích bởi cái chết, Tử hối hả, dồn dập sáng
tạo chứ đâu có làm văn! Anh trút đời mình, lòng mình từng trận, từng hơi
chứ đâu có ngồi điêu khắc, chạm trổ từng câu từng chữ. Ta phải hiểu Anh
không phải từng câu từng chữ mà từng hơi. Các nhà thơ khác ta tìm hiểu,
rồi làm quen, quen cho đến thuộc, càng thuộc, nhập tâm ta càng khám phá
ra và yêu họ. Nhưng với Hàn Mặc Tử có khi lại cứ phải yêu Anh trước,
thuộc Anh trước, nhờ thế ta quen với những kỳ, những siêu, những điên,
những dại, những tận đáy, những tột trời của Anh và nhờ thế, ta lại hiểu
Anh. Hiểu vì sao Anh lại nghe được những điều ta không nghe:
Người lắng nghe, lắng nghe trong đáy giếng
Tiếng vàng rơi chìm lịm xuống hư vô
thấy được các màu ta không thấy:
... Chết rồi, xiêm áo trắng như tinh
... Bóng em chờn chợ trong bao nhiêu màu
Anh có những tầm nhìn ta chưa quen thuộc:
Anh đứng cách xa hàng thế giới
Lặng nhìn trong mộng miệng em cười
Mặc những thứ ta ít mặc:
Áo ta rách rưới trời không vá
Suốt bốn mùa trăng mặc vải trăng
Cho đến lương thực của anh cũng khác:
Gió trăng có sẵn làm sao ăn
Ta hãy để cho ta cuộn đi trong dòng
nhạc, cái nhạc mới nghe chưa hiểu nó nói gì, chỉ cảm được nó ru ta,
nhưng đừng sốt ruột, son (âm thanh) đi trước và sens (ý nghĩa) sẽ lần
theo sau, lần theo sau, đừng sốt ruột.
Sang chơi thôi, sang chơi thôi, mà ai
Thu đây rồi! Bước lên cầu Ô Thước
Sao vàng rơi đầy trên sóng nước
Đứng ngửa tay mà hứng máu trời sa
rồi lại
Để chơi vơi này bông trăng lá gió
Để phiêu diêu này tờ thơ vàng vọ
Để dầm dề hạt lệ đôi ta
Beethoven bảo rất đúng: "Âm nhạc là một
sự thiên khải cao hơn mọi khôn ngoan, mọi triết học". Để cho cái nhạc
dại dột của đoạn thơ này ru ta, nghe những máu kia, sao trời kia, tờ thơ
kia, giọt lệ nọ, bỗng dưng ta thấy loé ra nhưu được khôn ra, được thiên
khải và nhận ra rằng: Hàn Mặc Tử đây rồi. Máu và sao, chơi vơi và vàng
vọ, phiêu phiêu trăng gió và hạt lệ dầm dề.
Cái cấu trúc nghịch lý của Hàn Mặc Tử! Hồn tráng lệ của Anh đấy, mà thảm kịch của đời Anh đấy. Hiểu rồi.
Đi công tác ở các nước phương Tây, tôi
thường gặp anh chị em Việt Kiều xa nước lâu ngày, gặp anh chị em di tản
nữa. Các anh chị hỏi: "Cách mạng đối với Hàn Mặc Tử ra sao?".
Ra sao ư? Cách mạng đã đón di hài vua
Duy Tân về nước vừa rồi, Cách mạng cũng đón thơ của Tử như vậy. Cách đây
từ những ba mươi năm tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai năm
1957, lúc đất nước mới chỉ có tự do một nửa, thù trong giặc ngoài làm
cho Tổ quốc ta ở trong thế ngặt nghèo, thế mà bàn về vấn đề tiếp thu di
sản, đồng chí Trường Chinh đã nói:
"Cần nhận ra rằng văn nghệ Cách mạng của
chúng ta là kẻ kế thừa tất cả những giá trị văn nghệ do các thời đại
trước tạo ra. Chúng ta có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển tất cả các di
sản của dân tộc và cũng chỉ có chúng ta mới làm nổi công việc đó"
Hai lần đồng chí dùng đến chữ tất cả
57-87! Ba mươi năm, chiến tranh cũng chiến tranh rồi, hoà bình cũng hoà
bình rồi, nếu không tiếp thu Tử bây giờ còn đợi đến lúc nào! Giao cho
con cháu tiếp thu thì con cháu sẽ lên án chúng ta thôi. Sao cái gì cũng
dồn cho chúng nó. Chúng nó còn bao nhiêu việc. Huống nữa tiếp thu Tử là
lợi cho chúng ta chứ lợi gì cho Tử đã chết cách đây nửa thế kỷ. Anh
Trường Chinh dặn tiếp: "Việc uốn nắn lại những thái độ hẹp hòi máy móc
đối với những giá trị văn nghệ cũ không những có tác dụng sửa chữa những
thái độ bất công với nhiều tác phẩm mà còn có tác dụng mở rộng con
đường cho sáng tác văn nghệ hiện thời". Thực là chí tình đạt lý.
Và tôi tin là việc tiếp thu Tử, như anh
Trường Chinh nói đó, với văn nghệ hiện thời, sẽ có tác dụng mở rộng con
đường, hỡi những người mỗi bước đi cứ sợ nhầm đường.
Sự thừa kế các tác phẩm như của Tử sẽ
làm cho tim ta nhân tính hơn, óc ta co dãn đàn hồi hơn, và cía nhìn ta
không đơn giản mà trở nên đa dạng và phong phú.
Ô kìa, bây giờ, đối diện với bể Đông,
trên điểm cao Gành Ráng, mộ Tử bỗng dưng ngời chói. Cách không xa vị
trí, lâu dài của một tên vua nhà Nguyễn gần đó đang lại tàn. Nguyễn
Trọng Trí là Tử đâu có thừa nhận thứ vua ấy. Dù cơ cực đến mấy, Tử vẫn
tin ở cái ngôi sáng tạo của mình. Anh mới là vua chứ.
Ta đi tìm mộng tầm xuân
Gặp vua nhà Nguyễn bay trên mây
Rượu nắng uống vào thì say
Rực rỡ như một vì vua:
Đầy mình lốm đốm những hào quang
Nghĩa là anh không chấp nhận sự huỷ
diệt, sự cát bụi, tro bụi hoá anh như lời nguyền rủa "Từ cát bụi mi trở
về cát bụi". Nghĩa là anh tin ở sức sáng tạo "bàn tay thi sĩ kể lên
trăng" của anh. Đồng thời tin chúng ta sẽ đánh giá đúng tài năng "siêu"
ấy.
Gành Ráng... Qui Nhơn... Tôi nhớ lại bao
nhiêu hình ảnh, kỷ niệm một thời. Nhớ Anh, nhớ không khí gia đình Anh,
bác gái thân sinh ra Anh, Chị Lễ... Nhớ những người bạn gần xa đã dính
líu đến Tử, bao bọc, đùm bọc lấy Anh - Quách Tấn, Trần Thanh Địch, Trọng
Quí (Thanh Nghị bây giờ). Trọng Miên, Bích Khê, Yến Lan, Hoàng Diệp,
Nguyễn Viết Lãm, v.v.... Nhớ tên những người con gái từng đi qua hay ở
lại trong đời Anh, có người là bóng hình, có người chỉ là cái tên thôi.
Anh chưa gặp mặt: Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình, Thương Thương và cái
tên:
Ta đề chữ Ngọc trên tàu chuối
Sương ở cung thiềm giỏ chẳng thôi
Nhưng lạ chưa, nhớ nhất vẫn là tôi nhớ
chú Hành, cậu bé có tên mà hoá vô danh, nhưng mà bốn năm trời cậu vẫn
hằng ngày chăm sóc, đem cơm cho Tử. Gặp Hành lúc nào cũng thấy Hành
cười! Quá chú ý đến tri kỷ, tri âm mà quên người ân nhân này đi là điều
không phải đâu, hỡi các nhà viết sách sau này về Hàn Mặc Tử.
Viên Tĩnh Viên, 2-9-1987
Nguồn VanVN.Net
Nguồn VanVN.Net