Vào độ trăng tròn tháng Bảy âm lịch, là
ngày lễ Vu Lan. Ngày này các chùa thường thiết lễ rất trọng thể và các
Phật tử đến tham dự rất đông đảo để cầu nguyện cho cha
mẹ hiện tiền được an lạc, cha mẹ quá vãng được siêu sanh tịnh độ.
Vào
ngày này các chùa Việt Nam thường thiết lễ rất trọng thể và các Phật tử
đến tham dự rất đông đảo để cầu nguyện cho cha mẹ hiện tiền được an
lạc, cha mẹ quá vãng được siêu sanh tịnh độ, cùng là được nghe các thầy
giảng về ý nghĩa lễ Vu Lan và đạo hiếu của người con đối với các bậc
sinh thành.
Chữ Vu Lan, vốn phiên âm từ tiếng
Sanscrit: Ullambana, Hán dịch là giải đảo huyền, có nghĩa là “cứu nạn
treo ngược”. Giải có nghĩa là gỡ ra cho khỏi vướng mắc, cởi trói buộc,
giải mê lầm.
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A
La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà
Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân, thì thấy bà đang ở cõi
ngạ quỷ vô cùng đói khổ.
Ngài đem cơm đến dâng mẹ, nhưng mẹ ngài
khi được cơm thì lòng tham nổi lên, sợ người khác trông thấy mà đến
giành giựt hay xin bớt, cho nên bà một tay che bát cơm lại, một tay bốc
ăn. Bởi lòng tham lam độc ác trong tiền kiếp nổi bừng lên, nên cơm đưa
vào miệng liền biến thành than hồng không ăn được.
Ngài vô cùng thương xót mà không biết
làm sao cứu, bèn trở về thưa với Phật, xin ngài từ bi chỉ dạy phương
pháp cứu độ mẹ. Phật dạy rằng vào ngày trăng tròn tháng bảy, tức là ngày
lễ Tự Tứ của chư Tăng, sau ba tháng an cư kết hạ thanh tịnh, hãy sắm lễ
vật và thỉnh chúng Tăng để cúng dường, nhờ sự chú nguyện của chúng Tăng
thì mẹ Ngài sẽ được giải thoát. Ngài Mục Kiền Liên tuân theo lời Phật
dạy, thỉnh chúng Tăng chú nguyện và nhờ đó mẹ ngài, bà Thanh Ðề đã được
sanh về cõi trời.
Ngày xá tội vong nhân được dân gian gọi
một cách nôm na là ngày cúng cô hồn. Lễ cúng cô hồn được truyền từ Ấn Độ
vào Trung Hoa vào thời Đường và được truyền sang nước Việt từ năm 1302,
sau đó lễ này rất thịnh hành vào thời đại Phật Giáo nhà Trần qua việc
tổ chức các trai đàn chẩn tế, gọi là “diệm khẩu phổ thí pháp hội” có
nghĩa là những đại hội về Phật Pháp để bố thí thức ăn cho loài quỷ đói.
Lễ cúng cô hồn khác với lễ Vu Lan dù
được cử hành trong cùng Ngày Rằm. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ
nhiều đời được siêu thoát, một đằng là để bố thí thức ăn cho những vong
hồn chưa được siêu thoát, những vong hồn không nơi nương tựa, không
người cúng kiếng.
Dần dà về sau tại miền Nam Việt Nam, tập
tục cúng cô hồn này biến thể từ hình thức đến nội dung, chuyển từ khuôn
viên chùa ra ngoài dân gian và được lan rộng tổ chức tại các xí nghiệp
thương mại và tại các công ty tư lập theo truyền tụng rằng, ngày này cửa
địa ngục rộng mở, ngạ quỷ được phóng thích, nên cúng tế chúng để được
buôn may bán đắt, tai qua nạn khỏi.
Ngày xưa cúng cháo hoa và vàng mã cho cô
hồn, canh ốc nhồi nấu với chuối xanh cho người sống; ngày nay giết gà,
mổ bò, mổ heo làm cỗ linh đình gọi là cúng cô hồn nhưng thực là cúng cho
người sống. Là Phật tử chúng ta không nên đi theo vết mòn xưa cũ, chỉ
nên cúng chay theo truyền thống mà không nên giết hại súc vật và nên
phát tâm bố thí đến những người nghèo khổ cùng là phóng sinh để báo hiếu
cho cha mẹ ông bà quá vãng.
Theo Tuvienhuequang