Câu chuyện của tiến sĩ Mai Ngọc Hồng làm
tôi xúc động thực sự. Ông là người vừa trao tặng Nhà nước ta tấm bản đồ
Trung Quốc xuất bản năm 1904 tại Thượng Hải làm
chấn động dư luận trong và ngoài nước.
Chuyện
công bố tấm bản đồ đặc biệt này, nói đặc biệt vì đó là vật chứng hùng
hồn do chính người Trung Quốc làm ra, đã bác bỏ cái gọi là chủ quyền mà
họ đang rêu rao, lập lờ đánh lừa nhân dân TQ và dư luận thế giới về
Hoàng Sa và Trường Sa. Câu chuyện ông kể về lai lịch tấm bản đồ cứ ngỡ
như là cổ tích(1). Đôi khi trong cuộc sống ta bắt gặp những việc lúc đầu
tưởng nhỏ nhặt, giản đơn nhưng theo thời gian, đến một lúc nào đó nó
lại làm nên giá trị to lớn không ngờ. Chuyện ông có được báu vật “Hoàng
triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” là như vậy. Sự xuất hiện của nó, ở thời
điểm tình hình Biển Đông đầy căng thẳng, chủ quyền biển đảo của tổ quốc
đang bị đe dọa nghiêm trọng, như một lời khẳng định dứt khoát: chân lí
thuộc về dân tộc ta.
Trong câu chuyện ông kể có một chi tiết
làm tôi hết sức xúc động và suy ngẫm. Ấy là hôm làm lễ bàn giao chính
thức tấm bản đồ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia, có một chị nông dân nói
là từ Bắc Giang xuống để xem cái bản đồ Trung Quốc và gặp cho bằng được
người đã hiến tặng cho Nhà nước. Một chị nông dân thứ thiệt, nói như Cụ
Đồ Chiểu chị là người “chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ/Việc cuốc việc cày tay vốn quen làm”(2).
Chị lặn lội từ Bắc Giang xuống Hà Nội, không phải để lo cái việc cấy
cày sao cho nhiều lúa, nhiều khoai mà là xem cái bản đồ minh chứng cho
chủ quyền dân tộc. Hóa ra một người nông dân chân lấm tay bùn như chị
lại hiểu rất rõ mối quan hệ sống còn giữa cái riêng và cái chung để rồi ý
thức được rằng, khi đất nước bị đe dọa, làm con dân như chị phải có
trách nhiệm. Có thể chị chưa nghe câu “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” nhưng việc làm của chị đã chứng minh cho câu nói đó của ông cha.
Hành động của chị nông dân, làm tôi nghĩ
đến những câu chuyện lịch sử. Đầu tiên là chuyện Thánh Gióng, truyền
thuyết về một cậu bé lên ba mà chưa biết nói, nhưng khi nghe sứ giả
truyền lệnh nhà vua vời người tài giỏi ra đánh giặc cứu nước bỗng dưng
bảo mẹ mời sứ giả vào để rồi sau đó trở thành huyền thoại đầu tiên trong
lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Thời Trần, trước họa xâm lăng lần
thứ hai của quân Nguyên-Mông, chàng trai nghèo Phạm Ngũ Lão ngồi đan sọt
bên vệ đường vì mải nghĩ đến chuyện binh thư đánh giặc cứu nước, mà
không hay biết mình bị quân lính đâm giáo vào đùi. Khi được Trần Hưng
Đạo hỏi, Phạm Ngũ Lão thưa: “Bẩm Đức Ông, kẻ thứ dân này tuy ở nơi
thôn dã, xa cách thị thành, song cũng biết giặc Nguyên - Mông đã động
binh, rắp tâm xâm lược nước ta nên đã cùng trai tráng trong vùng luyện
tập võ nghệ, chờ thời cơ đầu quân giết giặc, đền nợ nước...”(3) Thế
đấy, những người nông dân Việt Nam truyền đời vốn hiền lành, chất phác.
Nhưng khi kẻ thù không để cho đất nước này bình yên thì họ biết cách để
vùng lên đánh bại. Lịch sử dân tộc đã chói ngời bởi những người anh
hùng áo vải như thế.
Trở lại câu chuyện của chị nông dân Bắc
Giang, đấng nam nhi có học, bằng cấp đủ loại, chức tước đầy mình, bổng
lộc không thiếu như lũ chúng tôi bỗng thấy xấu hổ. Biển Đông dậy sóng,
“tàu lạ” như mây đen đang ùn ùn kéo đến, chủ quyền biển đảo của Tổ quốc
bị chúng ngang nhiên xâm phạm, thế mà họ - lũ chúng tôi đây vẫn trong
giấc mộng bình an. Bất chợt nhớ đến mấy câu thơ của Chế Lan Viên:
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rũ bóng xuống tâm hồn.(4)
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rũ bóng xuống tâm hồn.(4)
Thế đấy, khi ta chỉ biết lo cho bản thân mình trong lúc vận nước nguy nan thì hạnh phúc ấy, thật hổ thẹn lắm thay !
Xin đừng để cho lòng ta “thành rêu phong chuyện cũ”, “thành con rối, cho cuộc đời giật dây”(5).
Cảm ơn chị nông dân vô danh đã cho tôi thấm thía hơn trong bối cảnh hôm nay, bài học mà ông cha đã dạy từ xa xưa: “dân vi bản”. Cụ Nguyễn Trãi đã khẳng định: “Lật thuyền mới biết dân như nước”(6). Hồ Nguyên Trừng (con trai Hồ Quí Ly) đã từng xót xa: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng người không theo”. Và Cụ Hồ nhắc nhở: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu/Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Đấy là chân lí muôn đời.
Một chị nông dân còn đứng ngồi không yên vì vận nước, lũ chúng ta sao có thể yên vị ngắm nhìn ?
02-8-2012
Nguyễn Duy Xuân
Nguyễn Duy Xuân
Chú thích:
(1). Theo Tân Linh, Van hoa Online ngày 30-7-2012
(2). Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
(3). Dựa theo Phạm Đình Hổ, Vũ trung tùy bút
(4), (5). Chế Lan Viên, Người đi tìm hình của nước
(6). Nguyễn Trãi, Quan hải (Đóng cửa bể). Nguyên văn: “Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ”
(1). Theo Tân Linh, Van hoa Online ngày 30-7-2012
(2). Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
(3). Dựa theo Phạm Đình Hổ, Vũ trung tùy bút
(4), (5). Chế Lan Viên, Người đi tìm hình của nước
(6). Nguyễn Trãi, Quan hải (Đóng cửa bể). Nguyên văn: “Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ”
Bài đã đăng trên Văn hóa Nghệ An, Trannhuong.com và các trang khác