Trang chủ

     

Thứ Ba, 25 tháng 5, 2010

CẢM HOÀI - Đặng Dung

     Ông người huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An (nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh).
     Theo Đại Nam Nhất Thống Chí – phần Nghệ An tỉnh thì: Tổ tiên Đặng Dung vốn người Hóa Châu, sau di cư đến làng Phù Lưu, huyện Thiên Lộc. Dưới triều nhà Hồ, ông giúp cha là Đặng Tất (? - 1409) cai quản đất Thuận Hóa. Sau khi quân Minh (Trung Quốc) tiến chiếm nước Việt (khi ấy có quốc hiệu là Đại Ngu), nhà Hồ sụp đổ, Đặng Dung cùng cha tham gia cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi (tức Giản Định Đế).
     Năm 1409, sau trận đại chiến ở Bô Cô (xã Hiếu Cổ, huyện Ý Yên, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay); “vì nghe lời gièm pha của bọn hoạn quan là Nguyễn Quỹ, nói rằng Đặng Tất chuyên quyền, vua Giản Định Đế đem lòng ngờ vực đã giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Đặng Dung tức giận bỏ Trần Ngỗi, cùng Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân) rước Trần Quý Khoáng từ Thanh Hóa về đất Chi La (nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), tôn lên ngôi vua (tức Trùng Quang Đế), và ông được giữ chức Đồng bình chương sự.
     Về sau, do nhu cầu cần phải hợp nhất hai lực lượng, các tướng của Trần Quý Khoáng do Nguyễn Súy cầm đầu đã tổ chức đánh úp vào Ngự Thiên, đem Trần Ngỗi về Chi La tôn làm Thượng Hoàng.
     Dù phải chiến đấu dưới quyền người đã giết cha mình, nhưng vì sự nghiệp chung ông đã “vượt lên trên tất cả, trước sau vẫn giữ vững phẩm cách đường đường của một vị tướng.”. Từ đó ông trải qua rất nhiều trận giao chiến, nổi bật hơn cả là trận đánh vào tháng 9 năm Quý Tị (1413) ở khu vực Thái Gia.
     Đêm tháng 9 năm Quý Tỵ (1413), Đặng Dung đánh úp doanh trại giặc và suýt nữa bắt sống tướng Minh Trương Phụ (vì không biết rõ mặt nên Phụ lợi dụng đêm tối dùng thuyền nhẹ trốn thoát được). Tháng 11 năm 1413, vua tôi nhà Hậu Trần thế cô cuối cùng bị quân Minh bắt giải về Yên Kinh. "Đại Việt sử ký toàn thư" không có chép gì về cái chết của ông. Theo Ngô Thì Sĩ trong "Việt Sử tiêu án" thì ông và Nguyễn Cảnh Dị bị Trương Phụ moi gan ăn. Ông còn để lại duy nhất một bài thơ, "Cảm hoài", chép trong "Toàn Việt thi lục". Lý Tử Tấn có lời bình "phi hào kiệt chi sĩ bất năng" (nếu không phải là kẻ sĩ hào kiệt, ắt không thể làm được bài thơ này).
     Thuật hoài (chữ Hán: 述懷) hay Cảm hoài (chữ Hán: 感懷) là bài thơ tự sự của Đặng Dung.

Nguyên tác:

感懷
世事悠悠奈老何
無窮天地入酣歌
時來屠釣成功易
運去英 雄飲恨多
致主有懷扶地軸
洗兵無路挽天河
國讎未報頭先白
幾度龍泉戴月磨

Phiên âm Hán-Việt:
Cảm hoài
Thế sự du du [1]nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca[2].
Thời lai đồ điếu[3] thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ[4] hữu hoài phù địa trục[5],
Tẩy binh[6] vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo[7] đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền[8] đới nguyệt ma.
Chú thích:
1. Du du còn có nghĩa là rối bời.
2. Hàm ca: cuộc rượu hát ca.
3. Sách Ngữ văn 10 ([nâng cao]. Nxb Giáo dục, 2007, tr. 158) và Giáo trình Hán-Nôm tập 1 (tr. 247) đều giải thích: đồ là hàng thịt, điếu là câu cá; nhắc tích Phàn Khoái bán thịt chó, Hàn Tín câu cá, sau giúp Lưu Bang (Hán Cao Tổ) phá Tần, diệt Sở, làm nên nghiệp lớn.
4. Phò tá giúp đỡ cho chủ
5. Địa trục: trục trái đất.
6. Điển tích từ hai câu thơ trong bài Tẩy Binh Mã (Rửa khí giới) của Đỗ Phủ: An đắc tráng sĩ vãn thiên hà; Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng. Dịch nghĩa: Ước gì có tráng sĩ kéo nước sông Ngân xuống (dịch chữ thiên hà); Rửa sạch khí giới, mãi mãi không dùng đến nữa.
7. Vị báo: vị (chưa), báo (đáp trả lại).
8. Long Tuyền: tên một loại gươm báu thời xưa.

Dịch nghĩa:
Việc đời dằng dặc mà ta đã già, biết làm thế nào?
Trời đất mênh mông đắm trong cuộc rượu hát ca.
Khi gặp thời, người làm nghề hàng thịt, kẻ câu cá cũng dễ thành công,
Lúc lỡ vận, bậc anh hùng đành phải nuốt hận nhiều.
Giúp chúa, những mong xoay trục đất lại,
Rửa vũ khí không có lối kéo tuột sông Ngân xuống.
Thù nước chưa trả được mà mái tóc đã bạc sớm,
Bao phen mang gươm báu mài dưới bóng trăng.

Bản dịch của Tản Đà

Việc đời man mác, tuổi già thôi!
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi.
Gặp gỡ thời cơ may những kẻ,
Tan tành sự thế luống cay ai!
Phò vua bụng những mong xoay đất,
Gột giáp sông kia khó vạch trời.
Đầu bạc giang san thù chửa trả,
Long tuyền mấy độ bóng trăng soi.

Bản dịch của Phan Kế Bính

Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.
                          NDX tổng hợp