Trang chủ

     

Thứ Bảy, 9 tháng 1, 2010

CHU VĂN AN


CHU VĂN AN

     Chu Văn An (chữ Hán: 朱文安; 1292–1370), tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn (樵隱), tên chữ là Linh Triệt (靈澤), là một nhà giáo, thầy thuốc, đại quan nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, được phong tước Văn Trinh Công nên đời sau quen gọi là Chu Văn An.
     Quê ông ở làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (Thanh Trì), nay thuộc xóm Văn, xã Thanh Liệt,huyện Thanh Trì, Hà Nội.
     Là người chính trực, đã từng đỗ Thái học sinh nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung, bên kia sông Tô Lịch, ông có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam. Vua Trần Minh Tông (1314–1329) vời ông ra làm tư nghiệp Quốc tử giám, dạy cho Thái tử Trần Vượng, tức là vua Trần Hiến Tông tương lai. Đến đời Dụ Tông, ông thấy quyền thần làm nhiều điều vô đạo, ông dâng Thất trảm sớ xin chém 7 tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Ông chán nản từ quan về ở núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương) dạy học, viết sách cho tới khi mất. Cuộc đời thanh bạch và tiết tháo của ông là tấm gương sáng của thời phong kiến. Ông là một trong số rất ít bậc hiền nho được thờ ở Văn Miếu. Sự nghiệp của ông được ghi lại trong văn bia ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám.
     Câu đối thờ Chu An:
Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc
Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong
Cuối đời Trần là thời nào, ngâm vịnh rong chơi há chẳng phải là cái thú vui của bậc hiền giả?
Núi Phượng vẫn còn dấu vết ở ẩn, đỉnh non vẫn mãi mãi ngưỡng mộ phong thái của kẻ triết nhân.

MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA CHU VĂN AN

1. 鱉池
水月橋邊弄夕暉,
荷花荷葉靜相依。
魚遊古沼龍何在,
雲滿空山鶴不歸。
老桂隨風香石路,
嫩苔著水沒松扉。
寸心殊未如灰土,
聞說先皇淚暗揮。

Nguyên văn:

MIẾT TRÌ
Thủy nguyệt kiều biên lộng tịch huy,
Hà hoa hà diệp tịnh tương y.
Ngư du cổ chiểu long hà tại?
Vân mãn không sơn hạc bất quy.
Lão quế tùy phong hương thạch lộ,
Nộn đài trước thủy một tùng phi.
Thốn tâm thù vị như hôi thổ,
Văn thuyết Tiên hoàng lệ ám huy.

Dịch nghĩa:
Trăng nước bên cầu đùa giỡn bóng chiều hôm,
Hoa sen, lá sen, yên lặng tựa nhau.
Cá bơi ao cổ, rồng ở chốn nào?
Mây đầy núi vắng, hạc chẳng thấy về!
Mùi quế già bay theo gió làm thơm ngát con đường đá,
Rêu non đẫm nước che lấp cánh cửa thông.
Tấc lòng này vẫn chưa nguội lạnh như tro đất,
Nghe nói đến Tiên hoàng luống gạt thầm giọt lệ.
Miết Trì: nghĩa đen là ao ba ba. Có lẽ đây là một địa danh

2. 春旦
寂寞山家鎮日閒,
竹扉斜擁護輕寒。
碧迷草色天如醉,
紅濕花梢露未乾。
身與孤雲長戀岫,
心同古井不生瀾。
柏薰半冷茶煙歇,
溪鳥一聲春夢殘。

Nguyên văn:

XUÂN ĐÁN
Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn,
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.
Bích mê thảo sắc thiên như túy,
Hồng thấp hoa tiêu lộ vị can.
Thân dữ cô vân trường luyến tụ,
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.
Bách huân bán lãnh trà yên yết,
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.

Dịch nghĩa:

Nhà trên núi vắng vẻ, suốt ngày thảnh thơi,
Cánh cửa phên che nghiêng ngăn cái rét nhẹ.
Màu biếc ác cả sắc mây, trời như say,
Ánh hồng thấm nhành hoa sương sớm chưa khô.
Thân ta cùng đám mây cô đơn mãi mãi lưu luyến hốc núi,
Lòng giống như mặt giếng cổ, chẳng hề gợn sóng.
Mùi khói thông sắp hết, khói trà đã tắt,
Một tiếng chim bên suối làm tỉnh mộng xuân.

3. 初夏
山宇寥寥晝夢回,
微涼一線起庭梅。
燕尋故壘相將去,
蟬咽新聲陸續來。
點水溪蓮無俗態,
出籬竹筍不凡材。
棲梧靜極還成懶,
案上殘書風自開。

Nguyên văn:

SƠN HẠ

Sơn vũ liêu liêu trú mộng hồi,
Vi lương nhất tuyến khởi đình mai.
Yến tầm cố lũy tương tương khứ,
Thiền yết tân thanh lục tục lai.
Điểm thủy khê liên vô tục thái,
Xuất ly trúc duẩn bất phàm tài.
Thê ngô tĩnh cực hoàn thành lãn,
Án thượng tàn thư phong tự khai.

Dịch nghĩa:

Nhà trên nay vắng vẻ, ngủ trưa tỉnh dậy,
Một cơn gió mát nhẹ thổi vào cây mai trước sân.
Chim én lũ lượt kéo nhau đi tìm tổ cũ,
Ve sầu lục tục bay về, cất tiếng kêu đầu mùa.
Hoa sen dưới khe nhấp nhô mặt nước, vẻ thanh tao thoát tục,
Chòm măng vươn ra ngoài hàng rào, khác loài tầm thường.
Tựa cây ngô đồng, ngồi im lặng mãi trở thành lười biếng,
Gió đâu lật mở cuối sách nát đặt ở trên bàn.

4. 望泰陵
松秋深鎖日將夕,
煙草如苔迷亂石。
黯淡千山風更愁,
消沉萬古雲無跡。
溪花欲落雨絲絲,
野鳥不歸山寂寂。
幾度躊躇行復行,
平蕪無盡春生碧。

Nguyên văn:

VỌNG THÁI LĂNG
Tùng thu thâm tỏa nhật tương tịch,
Yên thảo như đài mê loạn thạch.
Ảm đảm thiên sơn phong cánh sầu,
Tiêu trầm vạn cổ vân vô tích.
Khê hoa dục lạc vũ ti ti,
Dã điểu bất đề sơn tịch tịch.
Kỷ độ trù trừ hành phục hành,
Bình vu vô tận xuân sinh bích.

Dịch nghĩa:

Cây tùng cây thu khóa kín trời sắp về chiều,
Cỏ non xanh rợn, như rêu che lấp những hòn đá ngả nghiêng.
Ngàn non ảm đạm, gió thổi càng thêm buồn,
Muôn thuở tiêu tan, mây không để lại dấu vết.
Hoa bên suối sắp rụng, mưa lất phất,
Chim ngoài đồng nội im tiếng, núi quạnh hiu.
Mấy lần dùng dằng, đi rồi lại đi,
Cỏ rậm bát ngát, sắc xuân xanh biếc.