Một Thế Giới - Đầu
tháng 4-1975, Mỹ đã tiến hành âm thầm những chuẩn bị cho cuộc rút chân
hoàn toàn khỏi Việt Nam. Làm thế nào diễn ra an toàn nhất. Kế hoạch của
Mỹ là phải đưa 6000 người Mỹ và khoảng 10.000 người Việt Nam đã từng
cộng tác với Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Xe tăng Quân Giải phóng tiến vào Dinh Độc lập
Tại Lycee Yersin, trung tá Minh học trên
tôi hai lớp và chúng tôi đã từng quen biết nhau. Trung tá Minh kể rằng
ông Thiệu chẳng nói gì với anh trước khi ra đi mặc dù anh là người bảo
đảm tính mạng, sự an toàn cho ông Thiệu trong nhiều năm. Thiệu không cần
quan tâm số phận người cộng sự thân tín của mình với gia đình anh ta
rồi sẽ ra sao. Không một lời an ủi hay một cử chỉ giúp đỡ trước khi ra
đi, mặc dù ông Thiệu dư biết trung tá Minh không dư dả gì trong vị trí
công tác của mình. Cái đáng phục ở trung tá Minh là dù sau đó anh có
điều kiện ra đi an toàn với chiếc trực thăng mà anh đang lái nhưng anh
vẫn quyết định ở lại.
Ngày 25-4-1975, ông Thiệu rời Sài Gòn đi Đài Loan, coi như cuộc chiến ở Việt Nam qua 4 thời tổng thống Mỹ kết thúc.
Một sự thắng trận hoàn toàn và đầu tiên
trong lịch sử nước Mỹ. Tuần lễ còn lại chỉ là thủ tục chính thức khai tử
cuộc chiến đã trở thành nỗi nhục và vết thương không thể hàn gắn trong
nhiều thế hệ Mỹ.
Thật ra Washington đã thấy trước sự sụp
đổ của miền Nam, đặc biệt từ sau quyết định của Thiệu rút khỏi Ban Mê
Thuột. Trong hồi ký của mình, Kissinger tiết lộ vào thời điểm đó, ông
không tin rằng Pháp sẽ dàn xếp thực tiễn. Do đó, từ đầu tháng 4-1975, Mỹ
đã tiến hành âm thầm những chuẩn bị cho một cuộc rút chân hoàn toàn
khỏi Việt Nam, làm thế nào diễn ra an toàn nhất. Kế hoạch của Mỹ là phải
đưa 6000 người Mỹ và khoảng 10.000 người Việt Nam đã từng cộng tác với
Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Về những ngày cuối cùng của chế độ Sài
Gòn, xem lại các tài liệu, người ta đi đến kết luận đại sứ Graham Martin
“lì” hơn tổng thống Thiệu. Ông ta không tìm cách bỏ chạy sớm như Thiệu.
Sau khi Thiệu ra lệnh rút khỏi Cao nguyên, lúc đầu đại sứ Martin vẫn hy
vọng thực hiện một tuyến phòng thủ cho Nha Trang, Sài Gòn và đồng bằng
sông Cửu Long để giữ lại phần đất sau cùng – một đề nghị khi được thông
báo về Washington đã làm điên tiết Phil Habib, trợ lý các vấn đề Đông
Nam Á của tổng thống Mỹ. Và đến khi chế độ Sài Gòn sụp đổ đến nơi thì
Martin vẫn hi vọng đạt tới giải pháp chính trị chính phủ liên hiệp ba
thành phần. Washington coi các suy nghĩ của Martin là ảo tưởng.
Quốc hội Mỹ mỗi ngày áp lực mạnh mẽ hơn
buộc tổng thống Ford phải tiến hành khẩn cấp lệnh di tản. Ngày
14-4-1975, cả Uỷ ban ngoại giao thượng viện Mỹ gọi điện trực tiếp cho
tổng thống Ford tại Cabinet Room – phòng làm việc riêng của tổng thống
để thúc hối tổng thống ra lệnh di tản ngay.
Chuyện này chưa từng xảy ra từ thời tổng
thống Woodrow Wilson. Bộ trưởng quốc phòng James Schlesinger và ngoại
trưởng Kissinger cố gắng trình bày tình hình quân sự cho các thượng nghị
sĩ nghe. Nhưng các nghị sĩ trong Ủy ban ngoại giao Mỹ phản ứng lại
rằng lúc này không còn lúc bàn cãi các giải pháp mà phải nhanh chóng di
tản người Mỹ, “ không được kéo dài thời gian để cứu người Việt Nam” (chi
tiết này trích trong hồi ký “Ending The War” của Henry Kissinger).
Đại sứ Martin trình ủy nhiệm thư tháng 7.1973
Trong hồi ký của mình, tổng thống Ford
kể rằng ông đã gửi cho Martin một bức điện nêu ý kiến rõ ràng: “rút ra
nhanh”. “Tôi sẽ cho ông một số tiền lớn để thực hiện cuộc di tản”. Nhưng
Ford kể thêm rằng nghị sĩ Jacob Javits, thuộc New York, lưu ý “đừng
dùng số tiền đó như một viện trợ quân sự trá hình”.
Nghị sĩ Frank Church (Idaho) thấy việc
cấp tiền cho sứ quán Mỹ có thể sinh ra vấn đề nghiêm trọng, có thể dẫn
tới “sự dính líu của chúng ta vào một cuộc chiến mở rộng nếu chúng ta cố
gắng di tản tất cả những người Việt Nam đã trung thành với chúng ta”.
Còn nghị sĩ Joseph Biden (Delaware) lặp
lại rằng “Tôi không biểu quyết thêm một số tiền nào để đưa người Mỹ ra
khỏi Việt Nam. Tôi không muốn điều này dính líu với việc di tản người
Việt Nam”.
Vào lúc này, chuyện di tản người Việt
Nam đã từng làm việc với người Mỹ, bị nhiều nghị sĩ coi như “một thứ nợ
đời phiền toái”, một yếu tố có thể làm liên lụy đến sự an toàn của người
Mỹ khi rút ra khỏi Việt Nam.
Cuối cùng Martin phải tuân lệnh di tản
từ Washington nhưng ông vẫn tìm cách thực hiện quyết định này theo ý
mình: kéo dài thời gian di tản người Mỹ để hạn chế sự hoảng loạn trong
số người Việt dính líu với Mỹ muốn rời khỏi miền Nam.
Kế hoạch di tản của người Mỹ khởi động
từ ngày 21-4-1975, liên tục cả ngày và đêm, ban ngày với máy bay C-141s,
ban đêm với máy bay C-130s. Những người không quan trọng được đi trước.
Để thực hiện cuộc di tản an toàn, tòa
đại sứ Mỹ cần duy trì sự tồn tại chế độ Sài Gòn càng lâu càng tốt. Đại
sứ Martin khi chấp nhận quan điểm của đại sứ Pháp Jean Marie Merllon
cần ủng hộ ông Minh thay thế ông Hương cũng vì mục tiêu ấy mà thôi.
Thời gian còn lại không còn nhiều nhưng
ông Hương vẫn không chịu rời khỏi cái ghế quyền tổng thống của mình bất
kể áp lực từ các sứ quán Pháp và Mỹ. Bám vào lập luận mình thay Thiệu
đúng theo Hiến pháp, ông Hương buộc những người muốn thay ông cũng phải
thông qua Hiến pháp và Quốc hội.
Là một người ngấm ngầm say mê quyền lực,
ông Hương vẫn mơ làm Tổng thống và tự coi mình là một Charles De Gaulle
mà ông rất ngưỡng mộ. De Gaulle là vị cứu tinh của nhân dân Pháp trong
thế chiến thứ hai, còn ông Hương thì tưởng tượng rằng mình có sứ mạng
cứu Sài Gòn trước “cuộc xâm lăng của Cộng sản”. Do đó, khi đã có quyền
lực trong tay rồi ông không dễ dàng buông ra.
Thế là các nổ lực nhằm đẩy ông Hương ra
khỏi chiếc ghế tổng thống phải hướng sang quốc hội. Ngày 26-4-1975,
lưỡng viện quốc hội được triệu tập để nghe tình hình quân sự và quyết
định người thay quyền tổng thống Trần Văn Hương.
Chỉ có 136 dân biểu nghị sĩ hiện diện
trên tổng số 219. Rất đông trong số họ đã chuồn ra nước ngoài. Phiên họp
lưỡng viện có mặt cựu tướng Trần Văn Đôn với tư cách Bộ trưởng Quốc
phòng, Đại tướng Cao Văn Viên – tổng tham mưu trưởng quân đội VNCH,
trung tướng Nguyễn Khắc Bình – Tổng Giám đốc cảnh sát, trung tướng
Nguyễn Văn Minh – Tổng trấn Sài Gòn. Các nhân vật quân sự này lần lượt
thuyết trình cho các nghị sĩ và dân biểu nghe tình hình quân sự tuyệt
vọng của Sài Gòn với sự dẫn chứng cụ thể trên bản đồ.
Quân VNCH chỉ có 60.000 người để bảo vệ
Sài Gòn. Lúc này, quân giải phóng cũng có một số quân như thế nhưng tăng
lên nhanh chóng từng giờ. Phần thuyết trình quân sự nhằm thuyết phục
các dân biểu nghị sĩ sớm biểu quyết sự thay thế ông Hương để tìm kiếm
một giải pháp chính trị. Tiếp liền đó là cuộc thảo luận của quốc hội. Có
mặt trong phiên họp này ở tầng lầu trên dành cho khách còn có đại diện
các Tòa đại sứ, đông đảo phóng viên nước ngoài.
Các dân biểu, nghị sĩ tham dự đều biết
mục đích phiên họp là đưa ông Minh lên thay ông Hương nhưng cuộc thảo
luận có lúc giậm chân tại chỗ và tưởng đâu bế tắc. Những dân biểu, nghị
sĩ từng bị gọi là “gia nô” vì bán mình cho Tổng thống Thiệu – họ nắm đa
số trong cả Thượng viện lẫn Hạ viện – do dự trong biểu quyết trao quyền
cho ông Minh vì hai lý do: 1. Sợ phe đối lập (tức phe ông Minh) nên lắm
quyền sẽ trả thù họ. 2. Sợ quân giải phóng vào Sài Gòn quá nhanh chạy
không kịp sẽ nguy hại tính mạng.
Nắm rõ tình hình này, trong giờ giải lao
tôi tiếp xúc với một số dân biểu và nghị sĩ có ảnh hưởng ở phía thân
chính và đưa ra thẳng đề nghị trao đổi như sau: 1.Sẽ không có ai trong
phe thân chính quyền bị trả thù vì hoạt động ủng hộ Thiệu hoặc chống phe
đối lập. 2.Những ai muốn rời khỏi Việt Nam thì sẽ được chính quyền mới
cấp hộ chiếu ra đi chính thức. Tôi nhấn mạnh rằng tôi nói với tư cách
đại diện chính thức ông Dương Văn Minh.
Những lời hứa này – một thứ bảo đảm an
toàn cho các dân biểu, nghị sĩ thân chính – đã thúc đẩy một số còn do
dự. Cuộc biểu quyết truất quyền ông Hương và trao quyền cho ông Minh
được thực hiện với số phiếu gần như tuyệt đối 147/151 vào lúc 20 giờ 54
tối. Đây là kết quả từ nhiều phía, nhất là trước viễn cảnh Sài Gòn bị
tấn công quân sự. Chủ tịch Thượng viện Trần Văn Lắm đã điều khiển cuộc
biểu quyết này.
Bằng điện thoại tôi đã báo cáo lại cho
ông Minh về “sáng kiến” riêng của tôi nhằm thúc đẩy nhanh cuộc biểu
quyết và được ông tán đồng.
Tôi nhớ rất rõ không khí tại trụ sở
Thượng viện trước và sau cuộc biểu quyết. Kẻ thì chán nản như người sắp
chết đuối là các dân biểu, nghị sĩ thuộc phe Thiệu, còn những người
thuộc phe Dương Văn Minh thì hấp tấp, vội vã như sợ không còn bắt kịp cơ
hội cuối cùng.
Ở tầng trên của phòng họp, báo chí nước
ngoài, các nhà ngoại giao nhìn xuống sự bát nháo phía dưới như những
khán giả đang xem một trận cầu đầy bi kịch ở phút 90! Hai đại diện ngoại
giao căng thẳng nhất vào lúc này thuộc hai tòa đại sứ Mỹ và Pháp. Phiên
họp lưỡng viện bắt đầu từ sáng 26-4-1975, một ngày sau khi ông Thiệu
lên máy bay đi Đài Loan, kéo dài đến chiều tối mới kết thúc.
Còn tại sao quốc hội biểu quyết ông
Dương Văn Minh làm tổng thống từ ngày 26-4-1975, lễ tấn phong diễn ra
ngày 28-4-1975, nhưng cuộc trình diện thành phần chính phủ lại dự kiến
đến ngày 30-4-1975? Trong nhóm ông Minh có bác sĩ Hồ Văn Minh là một
người thích nghiên cứu khoa bói toán, xem ngày tốt ngày xấu… Bác sĩ Minh
từng là phó chỉ tịch Hạ nghị viện và là ứng cử viên phó tông thống
trong liên danh của ông Dương Văn Minh khi ông Minh có ý định ra ứng cử
tổng thống năm 1971. Theo ông ‘thầy bói nghiệp dư” Hồ Văn Minh thì “ngày
tốt” để trình diện nội các Dương Văn Minh là ngày… 30-4-1975 và không
thể sớm hơn.
Ông Minh triệu tập những người thân cận,
cùng các nhóm Phật giáo, Công giáo từng tán đồng lập trường hòa bình
với ông dự phiên họp trong ngày 27-4-1975 để thành lập chính phủ. Những
người được mời đến buổi họp đặc biệt này – trên tầng lầu của một dãy nhà
phía sau ngôi biệt thự hình bánh ít, tức Dinh Hoa Lan – đều là những
người đã đồng hành với ông Minh trong những năm ông từ Bangkok trở về
sau thời gian bị phe tướng Nguyễn Khánh buộc lưu vong.
Hầu như không ai hiện diện trong buổi
họp ngày đó xem việc phân phối các chiếc ghế trong chính phủ Dương Văn
Minh như một thành đạt của cá nhân mình, cái ghế chức tước giờ đây đã
trở nên hết sức nặng nề, có thể mang lại nhiều phiền toái hơn là quyền
lực và danh vọng.
Ông Dương Văn Minh chọn luật sư Nguyễn
Văn Huyền, từng là chủ tịch Thượng viện – một trí thức công giáo có uy
tín miền Nam làm phó tổng thống. Ông Huyền được cả hai phía đối lập và
thân chính kính trọng. Cách cư xử của ông với mọi người luôn từ tốn và
lễ độ dù cho người đối diện nhỏ tuổi và vai vế xã hội kém hơn ông.
Tôi còn nhớ những lần tiếp xúc với ông,
bao giờ ông cũng mở đàu câu nói ‘Thưa ông dân biểu” hoặc “Thưa ông
trưởng khối” khi tôi làm trưởng khối dân biểu đối lập Hạ viện (khối Dân
Tộc). Về nhân cách, luật sư Huyền hơn hẳn các nhân sĩ nổi tiếng khác có
mặt trên chính trường Sài Gòn lúc bấy giờ như Trần Văn Hương, Phan Khắc
Sửu, Mai Thọ Truyền, Trần Văn Văn…
Ở vị trí thủ tướng, ông Minh mời luật sư
– nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, đã từng là ngoại trưởng trong chính phủ Ngô Đình
Diệm 12 năm về trước. Vào thời điểm chính phủ Diệm đối đầu với cuộc đấu
tranh của Phật giáo và có những hành động đàn áp ác liệt, ngoại trưởng
Vũ Văn Mẫu đang đi công tác tại Hoa Kỳ.
Ông đã cạo đầu và tuyên bố từ chức tại
đây để phản đối chính sách đàn áp của gia đình ông Diệm đối với Phật
giáo. Ông Mẫu để lại trong đầu tôi hình ảnh một con người có uy tín lớn
về nhiều mặt, từ nghề nghiệp riêng trong giới luật sư cho đến các hoạt
động chính trị qua cả hai thời kỳ Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu.
Thái độ chân thành và có thể gọi dũng cảm của ông trong những ngày cuối
cùng và cả khi lực lượng giải phóng vào Dinh Độc Lập khiến cho tôi nhớ
mãi và kính phục.
Phó thủ tướng là bác sĩ Hồ Văn Minh đã
từng là phó chủ tịch Hạ viện. Anh Minh tánh tình hiền hậu, thái độ chính
trị ôn hòa nhưng luôn đứng về phía đối lập và là bạn thân thiết của anh
Hồ Ngọc Nhuận. Cả hai chịu trách nhiệm Chương trình phát triển Quận 8,
một chương trình xã hội mà người bảo trợ là kỹ sư Võ Long Triều - ủy
viên thanh niên dưới chính phủ Nguyễn Cao Kỳ.
Tôi không nhớ hết tất cả những ai được
mời vào chính phủ Dương Văn Minh nhưng nếu có thiếu xót gì thì cũng rất
ít. Chẳng hạn như giáo sư Nguyễn Văn Trường được mời phụ trách Bộ giáo
dục. Ông Trường đã từng là Bộ trưởng giáo dục thời chính phủ Kỳ và cả
thời chính phủ Trần Văn Hương. Ông là người bạn thân thiết của giáo sư
Lý Chánh Trung. Khi ông Trường làm Bộ trưởng Bộ giáo dục, ông Trung là
đổng lý văn phòng của ông Trường, vị trí thứ hai trong bộ. Người được
mời đảm trách Bộ kinh tế, nếu tôi nhớ không lầm là ông Nguyễn Võ Diệu
đang là Tổng Giám đốc một ngân hàng.
Đáng chú ý là ở Bộ quốc phòng, tổng
thống Dương Văn Minh đã mời một nhân vật trong Lực lượng hòa giải dân
tộc thuộc ảnh hưởng Phật giáo Ấn Quang chẳng dính dấp gì đến quân đội,
đó là một giáo sư đại học trường đại học Huế, ông Bùi Tường Huân. Tôi có
hỏi ông Minh về sự chọn lựa khá đặc biệt này và ông đã trả lời: “Chính
phủ của mình đâu có mục đích tiếp tục chiến tranh. Một Bộ trưởng dân sự
và là một giáo sư đại học làm Bộ trưởng quốc phòng thể hiện cụ thể ý
muốn hòa bình của anh em mình…” .
Trong ghi chép riêng của mình, anh Hồ
Ngọc Nhuận có bày tỏ quan điểm của anh lúc đó là không nhận ghế bộ
trưởng nào cả. Ngay cả chuyện ông Minh được đề nghị thay ông Hương làm
Tổng thống, anh Nhuận cũng cố gắng thuyết phục ông Minh không nhận và
khuyên nên vận động để chủ tịch Thượng viện Nguyễn Văn Huyền hoặc nghị
sĩ Vũ Văn Mẫu nhận chức vụ này.
Tôi nhớ lúc đầu ông Minh có ý định giao
chức tổng trưởng Bộ Thông tin cho một người khác, nhưng sau cuộc trao
đổi giữa ông Minh với anh Dương Văn Ba và một vài anh em, ông Minh giao
cho tôi đảm trách bộ này. Tôi cũng nhớ ông Minh có ý định giao cho anh
Nhuận Bộ Xây dựng Nông thôn mà theo mà theo ông rất phù hợp tính cách
anh Nhuận. Và tôi cũng nhớ - nếu trí nhớ của tôi vẫn tốt – anh Nhuận có
một phản ứng giữa phiên họp làm mọi người không thể nín cười dù lúc tình
hình cực kỳ căng thẳng. Anh nói: “Nông thôn đâu còn nữa mà cần Bộ Xây
dựng nông thôn, thưa đại tướng!”.
Thế là anh Nhuận được ông Minh đề nghị
lãnh chức vụ Đô trưởng Sài Gòn. Trong thực tế, ngay cả với chức vụ này,
anh Nhuận cũng không… quan tâm. Lúc đó do những quan hệ riêng của anh
với “bên trong”, tức người của MTDTGPMN, anh biết rõ hơn nhiều anh em
trong nhóm ông Minh rằng… ‘màn đã hạ rồi”. Chuyện lập chính phủ vào thời
điểm này rồi chẳng đi đến đâu. Trong 48 tiếng đồng hồ cuối cùng, nhiều
anh em không thấy anh Nhuận ở đâu, có người thì thấy anh lúc hiện lúc…
biến.
Dân biểu Nguyễn Hữu Chung, ngồi bên cạnh
ông Minh trong phiên họp, được ông Minh đề nghị làm phụ tá đặc biệt của
tổng thống. Anh Nguyễn Hữu Chung là người rất thẳng tính đã từ chối
chức vụ này vì cho rằng nó không xứng đáng với những đóng góp của anh
ngay từ đầu trong nhóm.
Ông Minh cố gắng thuyết phục Nguyễn Hữu
Chung, nhấn mạnh rằng chức vụ phụ tá đặc biệt tổng thống được xếp ngang
hàng bộ trưởng và là thành viên của hội đồng bộ trưởng. Ông còn dẫn
chứng vai trò quan trọng của phụ tá đặc biệt Nguyễn Cao Thăng bên cạnh
tổng thống Thiệu! Nhưng Nguyễn Hữu Chung vẫn nhất quyết từ chối. Có lẽ
vì tại miền Nam lúc bấy giờ luôn có thành kiến đối với chức vụ phụ tá
đặc biệt của tổng thống qua hai nhân vật chuyên “đi đêm” và làm những
việc đen tối: Nguyễn Cao Thăng và Nguyễn Văn Ngân.
Anh Dương Văn Ba được đề nghị làm thứ
trưởng giáo dục nhưng không nhận và bày tỏ ý muốn chuyển sang làm Thứ
trưởng Bộ Thông tin cùng tôi.
Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền cùng
luật sự Trần Ngọc Liễng được ông Minh giao nhiệm vụ hòa đàm với
MTDTGPMN. Ngoài các thành viên chính phủ, thẩm phán Triệu Quốc Mạnh được
chỉ định là Tổng giám đốc cảnh sát Sài Gòn.
Lý Quý Chung