Nghìn vạn năm nay chúng sinh Việt vẫn
làm, vẫn ăn bánh chưng hàng năm thậm chí hàng ngày. Cả ao mực đã đổ ra
để tán để
bình về món ăn quốc hồn quốc túy. Ai cũng nghĩ mình đã hiểu và không còn
điều gì đáng nói về chiếc bánh xưa như Trái đất! Thử tìm hiểu về chiếc
bánh chưng vuông của tác giả Nguyễn Trung Thuần xuất hiện trước Tết quả
đã mở rộng tầm mắt cho bạn đọc. Rất cảm ơn tác giả, nhưng thấy bài viết
chưa “đã”, chúng tôi mạo muội bàn thêm.
Muốn hiểu tới tận cùng về chiếc bánh
chưng không thể không trả lời hai câu hỏi: 1. Chủ nhân chiếc bánh chưng
là ai? Và 2. Chiếc bánh chưng được sáng tạo như thế nào?
I. Ai là chủ nhân của bánh chưng?
Trước
hết, cần hiểu rõ, thế nào là bánh chưng? Nhờ bài viết của ông Nguyễn
Trung Thuần, ta biết cái tên khai sinh được viết trên giấy đầu tiên của
bánh chưng là 裹蒸. Từ điển phiên là “quả chưng”, “lõa, khỏa chưng” và
được giải nghĩa là loại bánh được gói dùng cho lễ tế chưng, lễ tế mùa
đông. Như vậy, bánh chưng theo văn tự được ghi sớm nhất là loại bánh
dùng lá cây, gói gạo nếp, đậu và thịt lợn đem luộc lên làm vật cúng
trong lễ tế mùa đông, là thứ bánh để cúng trong dịp Tết. Tuy nhiên, đấy
chỉ là chữ nghĩa trong từ điển. Mà từ thì sinh ra trước khi có điển nên
những từ không được điển chế đã gây khó cho những ai chỉ biết từ điển!
Nếu lục tìm trong tiếng Việt cổ thì quả cũng từng có nghĩa là bánh. Dân
gian Việt quen nói bánh trái. Đó là từ xưa, nay thường được hiểu là bánh
và trái cây. Nhưng nghĩa nguyên thủy của từ ghép bánh trái cho thấy:
bánh cũng từng được gọi là trái, là quả! Câu ca dao Tay cầm bầu rượu quả
nem là một chứng cứ. Quả nem là chiếc nem hình bánh ú, cũng có nghĩa là
bánh nem. Từ cái gốc gác xa xưa ấy, ta khám phá ra điều bí mật vô cùng
thú vị: quả chưng chính là bánh chưng tiếng Việt! Điều này có nghĩa là,
người Việt cổ trên đất Trung Hoa làm ra thứ bánh gọi là bánh chưng.
Nhưng rồi đất Việt bị chiếm, người Việt trở thành người Tàu, biết bao
tài sản Việt biến thành của Tàu. Tuy nhiên, cái tên cúng cơm của chiếc
bánh vẫn được giữ nguyên. Không chỉ giữ nguyên từ Việt cổ: quả là bánh
mà còn giữ nguyên văn phạm Việt theo lối nói chính trước phụ sau! Vậy là
dù cho hàng nghìn năm ra sức đồng hóa thì các thày Tàu cũng không thể
biến chiếc bánh chưng tiếng Việt thành chưng bính Tàu!
Với ý nghĩa như vậy thì loại bánh hình
bánh ú của dân Triệu Hưng, bánh đòn, bánh tày, bánh tét, Tapeng arua của
người Arem và bánh vuông của người Kinh đều là bánh chưng. Từ “chưng” ở
đây không phải động từ chưng cất mà là lễ tế cuối năm, tức cúng tế
trong dịp Tết. Từ Tét là do đọc trại của Tết, càng chứng tỏ loại bánh
làm vào dịp Tết. Một thực tế là, không chỉ người Kinh, người Triệu Khánh
Quảng Đông, người Arem làm bánh chưng, mà trên Hoa lục, từ miền đất của
nước Sở, nước Ngô, nước Việt xưa tận Sơn Đông, Động Đình Hồ xuống
phương Nam, Quảng Đông, Phúc Kiến, Vân Nam, Ba Thục… đâu đâu cũng có
bánh chưng.
Bánh chưng có từ bao giờ? Khó biết đích
xác nhưng sách còn ghi, khi Khuất Nguyên gieo mình xuống sông Mịch La
(năm 278 TCN), người nước Sở thương tiếc bằng cách thả bánh chưng xuống
sông để cá ăn bánh mà đừng rỉa xác ông! Sau này, hàng năm vào dịp giỗ
ông, người ta thả bánh xuống ao xuống giếng để tưởng niệm. Như vậy,
chiếc bánh chưng có từ xa xưa và quen thuộc với phần lớn dân cư sống
trên đất Trung Quốc.
Một câu hỏi: dân Trung Quốc là ai? Trong
bài viết của mình, tác giả Nguyễn Trung Thuần dẫn tư liệu: “Ở huyện
Khai Phong của Triệu Khánh từng phát hiện được một hóa thạch răng người
cách nay 14,8 vạn năm, được giới khảo cổ cho là tổ tiên sớm nhất của
người Lĩnh Nam.” Đấy là một trong những sai lầm chết người của khoa học
thế kỷ trước, khi cho rằng người Vượn Bắc Kinh Homo erectus pekinensis
sống 600.000 năm trước ở Chu Khẩu Điếm là tổ tiên người Trung Hoa. Sang
thế kỷ này, di truyền học phát hiện, người Bắc Kinh thuộc loài tiền
nhiệm của chúng ta, biến mất khỏi châu Á 250.000 năm trước. Chúng ta hôm
nay là Người Khôn ngoan Homo sapiens, tổ tiên xuất hiện ở châu Phi
180.000 năm trước và 70.000 năm cách nay đã men theo bờ biển Ấn Độ Dương
đặt bước chân đầu tiên trên đất Việt Nam của lục địa Đông Á. Sau đó, từ
Việt Nam, con người đông dần và 40.000 năm trước tiến lên khai phá vùng
đất mênh mông phía bắc. 4000 năm TCN, trên đất Đông Á, người Việt chiếm
khoảng 65% nhân số thế giới và xây dựng nền văn minh nông nghiệp rực
rỡ, trong đó có văn hóa bánh chưng.
Bánh chưng Triệu Khánh
Bánh chưng Quảng Đông (广东裹蒸粽)
II. Bánh chưng được sáng tạo ra sao ?
Có lẽ, chiếc bánh đầu tiên mà người Việt
làm ra là bánh… đất! Điều này được ghi lại trong Hậu Hán thư: “Dân Giao
Chỉ lấy đất sét làm bánh đem phơi khô, coi là vật quý, dùng trong cưới
hỏi.” Vài ba chục năm trước, nhiều phiên chợ ở Phú Thọ còn bán bánh đất.
Cũng thời đó, ở Thái Bình, nhiều bà già lấy những viên ngói nung non
lửa cho con dâu ốm nghén ăn, gọi là “ăn rở.” Sau này khoa học khám phá
ra đó là việc làm cực kỳ khôn ngoan vì bổ sung nguyên tố vi lượng,
khoáng chất cho thai nhi.
Không ai biết chắc chiếc bánh chưng được
làm từ khi nào. Chúng tôi đồ rằng, tiền thân của nó là những thỏi cơm
lam được nấu trong ống tre. Người Việt trồng lúa trước hết ở trên cạn,
gọi là lúa nương, lúa lốc mà phần nhiều là lúa nếp. Gạo bỏ vào ống tre,
cho nước vừa đủ rồi nướng trong lửa than. Khi cơm chín, chẻ ống tre ra,
được những thỏi cơm lam thơm ngon.
Một ngày đẹp trời, có ai đó nảy sáng
kiến cho thêm hạt đậu, hạt lạc rồi thịt lợn vào ống tre cùng với gạo.
Lúc này sản phẩm thu được không còn là đòn cơm lam bình thường mà là một
món ăn kỳ diệu. Có lẽ từ lúc này, thay cho từ cơm lam, người ta gọi là
bánh! Khi phát minh ra đồ gốm để đun nấu, con người nảy sáng kiến dùng
lá gói gạo (đã ngâm nước) với đậu, thịt lợn thành đòn dài như hình chiếc
ống tre, cho vào nồi nấu. Chiếc bánh hình khúc tre ra đời! Loại thức ăn
trân quý như vậy không dễ có hằng ngày nên chỉ có thể làm vào dịp lễ
lớn nhất trong năm là lễ tế mùa đông, tế chưng, còn gọi là Tết. Do vậy,
chiếc bánh được gọi là bánh chưng và cũng có tên là bánh tét, do đọc
trại của từ “Tết”.
Chiếc bánh hình trụ của ống tre gợi lên
hình tượng sinh thực khí nam, một vật thờ linh thiêng của người Việt cổ.
Lúc này người ta nhận ra, chỉ có sinh thực khí nam thì chưa đủ! Và do
bánh được gói bằng lá, không còn bị hạn chế bởi khuôn khổ chiếc ống tre
nên người ta gói những chiếc bánh hình vú tượng trưng cho sinh thực khí
nữ. Và trên bàn thờ là cặp bánh ú (vú, bú) với đòn bánh tét nằm giữa,
vừa là biểu trưng sự sung túc của nghề nông vừa thể hiện tín ngưỡng phồn
thực!
Cũng phải rất lâu sau, giữa thế giới của
bánh ú, bánh tày, bánh tét, tại kinh đô Việt Trì, theo truyền thuyết,
chàng Lang Liêu sáng tạo ra chiếc bánh hình vuông. Vẫn là chiếc bánh
chưng truyền thống trời che đất chở muôn vật bên trong nhưng chiếc bánh
vuông là bước nhảy vọt không chỉ về thẩm mỹ mà còn về trí tuệ. Chiếc
bánh chỉ nặng khoảng 500 – 600 gram và được buộc bằng bốn chiếc lạt: hai
dọc hai ngang. Bốn chiếc lạt trên hình vuông như trang giấy xanh tạo
thành chữ Tỉnh. Đấy là hình tượng nhắc lại thuở xa xưa khi tổ tiên mở
cõi: dân chúng chung tay vỡ mảnh đất hình vuông rồi chia đều làm chín
phần. Tám nhà cày cấy tám phần xung quanh và chung nhau chăm sóc phần
ruộng ở giữa, lấy hoa lợi nộp vua. Cách chia đất này thể hiện triết lý
bình sản của người Việt, đảm bảo tài sản đồng đều giữa các thành viên,
cái nền bền vững của hạnh phúc cộng đồng. Sau này, việc chia ruộng chữ
Tỉnh được chuyển hóa thành công điền. Công điền là ruộng của làng, vua
không có quyền đụng tới, ba năm một lần chia cho người nghèo cày cấy.
Bốn chiếc lạt còn chia bề mặt chiếc bánh
thành Lạc thư, Cửu cung bát quái Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn,
Đoài và Trung ương, cội nguồn của kinh Dịch. Đó cũng là ma phương đồ bậc
ba mà tổng các con số của các ô theo chiều ngang, dọc và chéo đều là
15: đúng bằng số bộ của nước Văn Lang thời Vua Hùng! Chắc chắn, từ đất
tổ Việt Trì, chiếc bánh vuông lan tỏa ra nhiều vùng Lạc Việt khác, trong
đó có Quảng Đông mà ngày nay người Hoa gốc Việt ở đây vẫn giữ được!
Cửu cung & ma phương bậc ba trên bánh chưng
Chiếc bánh vuông tượng trưng cho phái
nam là sáng tạo mỹ mãn. Nhưng như vậy chưa đủ vì có nam mà không nữ chửa
nên xuân! Thay cho bánh ú quen thuộc, chiếc bánh trắng như ngọc, dầy
dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên ra đời… Cặp bánh chưng bánh dầy được
dâng vua cha, cúng tổ tiên và trời đất, sang trọng hơn, thanh nhã hơn!
Câu chuyện bánh chưng còn cho ta biết
quá trình hình thành ngôn ngữ Trung Hoa. Người Việt từ xưa trên toàn
Đông Á gọi chiếc lá để gói bánh chưng là lá dong. Khoảng 4000-5000 năm
trước, khi sáng tạo chữ vuông, dựa theo âm “dong” tiếng Việt, người
Quảng Đông gọi lá dong là diệp đông 叶冬. Nhưng từ thời Tần Hán, người
phương Bắc xâm chiếm Nam Dương Tử, áp đặt dân Giang Nam nói theo cách
nói phương Bắc, lá dong 叶冬 biến thành 冬叶 dong lá. Tới thời Đường, chuyển
hóa theo tiếng nói của kinh đô Tràng An thành đông diệp. Nhưng sau này,
tiếng Trung Quốc biến đổi thành tiếng Bắc Kinh pinyin là dongye
Ở đây có vấn đề dễ gây lấn cấn: bánh
chưng vuông tượng đất “địa phương 地方” là âm. Bánh dầy tượng trời “thiên
viên 天圆” là dương! Nhưng trong truyền thống, người Việt quan niệm “nam
văn, nữ thị.” Văn vốn là chữ “vuông”, trong giáp cốt văn lúc đầu được vẽ
hình vuông. Sau cách điệu thành hai đường chéo tượng trưng cho hình
vuông (文). Nhưng trong câu chuyện này, bánh chưng tượng trưng cho phái
nam trở thành âm còn bánh dầy tượng trưng cho phái nữ lại là dương! Giải
thích sao về sự trái ngược này? Không khó! Bởi lẽ đã có khi người xưa
nói: “Ông giăng mà lấy bà giời!” Phải chăng đó cũng là cái “lý” của
người Việt: không có cái gì tuyệt đối dương hoặc tuyệt đối âm! Cồng là
bà. Lệnh là ông. Nhưng có lúc “lệnh ông không bằng cồng bà!” Cũng vậy,
Trời là cha là dương nhưng có lúc lại trở thành âm. Còn Đất là mẹ, là âm
nhưng có lúc lại thành dương?!
Ông Nguyễn Trung Thuần dẫn lời Giáo sư
trần Quốc Vượng cho rằng bánh chưng cổ xưa không phải hình vuông là
chính xác. Nhưng Giáo sư của chúng ta đã sai khi nói:
“Bánh chưng vuông tượng đất, bánh
dày tròn tượng trời là một triết lý rất Trung Hoa nhưng triết lý ấy thực
ra còn chưa có ở đời Hán (HVT tô đậm). Vậy, làm gì có chuyện “bánh
chưng vuông tượng trời” ra đời ở Việt Nam vào thời Hùng Vương? Ở Cổ Loa,
thủ đô của nước Âu Lạc, nơi chỉ cách trung tâm Hà Nội có 17 km mà bây
giờ vẫn có rất ít bánh chưng vuông. Họ thường gói bánh chưng tròn, còn
gọi là bánh tét hay là bánh tày”
Sự thực, bánh chưng vuông tượng đất,
bánh dầy tròn tượng trời không phải triết lý Trung Hoa mà là triết lý
của tộc Việt từ xa xưa, trước cả thời Phục Hy 4800 năm TCN, trong thiên
viên địa phương của kinh Dịch. Còn việc ở Cổ Loa ít gói bánh vuông chỉ
là một thói quen: người dân ưa gắn bó với với tục xưa của mình!
III. Đâu là trung tâm?
Hàng nghìn năm nay, các học giả đại Hán
cho rằng, Trung Nguyên Hoa Hạ là trung tâm, tỏa chiếu ánh sáng văn minh
khai hóa các dân man di tứ cận! Sở dĩ nói như vậy vì họ không hiểu rằng,
Trung Nguyên xưa chính là đất Trong Nguồn của người Dương Việt. Sau khi
chiếm đất này, người Hoa Hạ đã chuyển chữ Trong thành Trung, Nguồn
thành Nguyên để xóa dấu vết! Tuy tổ tiên Việt từ xa xưa di chúc cho con
cháu: Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra
thì chỉ tới nay người Việt mới biết viết hoa chữ Trong Nguồn và nhận ra
đó là đất cũ của tổ tiên!
Tuy vậy kẻ ăn vụng không phải bao giờ
cũng chùi được mép: theo văn phạm Trung Hoa thì địa danh ấy phải là
Nguyên Trung mới đúng! Đằng này lại vẫn là Trung Nguyên –Trong Nguồn
theo cách nói Việt! Không chỉ địa danh này mà hàng loạt địa danh khác
cùng chung số phận, trái ngược cách nói Hoa: Sơn Đông, Sơn Tây, Hà Nam,
Hà Bắc… Sở dĩ vậy vì lẽ đơn giản: đất lấy được nhưng tên đất đã ăn sâu
trong lòng người thì không dễ đổi!
Cũng ánh sáng khoa học thế kỷ mới cho thấy:
1. Người Việt Nam có đa dạng di truyền
cao nhất trong các sắc dân Đông Á, có nghĩa là người Việt là cội nguồn
của dân cư Đông Á. Đất Việt Nam là nơi phát tích của các dân tộc Đông Á.
2. Từ năm 1898, nhà ngữ học người Pháp
H. Frey đã cho xuất bản cuốn sách L’annamite, mère des langues;
communauté d’origine des races celtiques, sémitiques, soudanaises et
de l’Indo-Chine; Tiếng Việt Nam là mẹ các ngữ; cộng đồng có nguồn gốc
của các dân tộc Celtic, Do Thái, Sudan và Đông Dương.
3. Từ khoảng 18.000 năm trước, người
Việt sáng tạo công cụ đá mới Hòa Bình rồi mang theo bước chân thiên di
ra khắp châu Á, tới đất Mông Cổ và tạo dựng văn hóa Ngưỡng Thiều, niềm
tự hào của người Hoa Hạ.
4. Người Việt thuần hóa cây kê và cây lúa rồi đưa lên lưu vực Dương Tử, Hoàng Hà.
5. Đồ đồng được làm ra sớm nhất ở văn
hóa Phùng Nguyên rồi lan tỏa ra khắp Hoa lục cùng Đông Nam Á. Trống đồng
cũng được chế tác trên khắp giang sơn Việt tộc, từ địa bàn nước Sở cũ
tới Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và vùng Caren của nước Mianmar hôm
nay. Nhưng trống đồng Đông Sơn của người Lạc Việt, tộc người đa số, từng
lãnh đạo dân cư Đông Á về xã hội và ngôn ngữ là tinh xảo nhất. Không
chỉ đạt mức thẩm mỹ siêu tuyệt mà còn ký thác trong đó những biểu trưng
sâu thẳm của minh triết Việt.
6. Chỗ nào có người Việt, nơi ấy có bánh
chưng. Tuy nhiên, chiếc bánh vuông Lạc Việt không chỉ đẹp về tạo hình
mà còn mang những nét tiêu biểu nhất của minh triết Việt.
Vậy đâu là trung tâm, xin quý độc giả suy ngẫm!
Nguồn BS