Người Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh giờ bị
kỳ thị. Đi đâu cũng thấy người ta nói ghét dân Thanh Nghệ Hà, cầm hồ sơ
xin việc mà giọng điệu, cái hộ khẩu ở vùng này thì coi như trượt rớt từ
vòng đầu.
Thanh - Nghệ - Hà mà thực chất là hai xứ
Thanh, Nghệ (tức là hai vùng đất có những khu biệt về Văn hóa). Trải
khoảng ngàn năm tạo dựng, đi kèm theo đó là những tương đồng và dị biệt
về lịch sử, văn hóa hình thành nên cốt cách, tâm tính con người.
Khu biệt văn hóa
Thanh - Nghệ được ví như Việt Nam thu
nhỏ. Cái gì Việt Nam có thì Thanh - Nghệ cũng có. Lịch sử hai vùng này
ước chừng trên ngàn năm, nghĩa là tương đương với lịch sử Việt Nam (từ
Ngô Vương lập quốc đến giờ). Dân số ước chừng trên 8 triệu người, bằng
gần 10% dân số Việt Nam.
Cả hai xứ đều là biên thùy trọng trấn
của Vương quốc Đại Việt khi xưa. Là đất căn bản đế vương, Thanh - Nghệ
quan trọng đến nỗi: Thanh Nghệ còn, Quốc gia còn, Thanh Nghệ mất Quốc
gia mất.
Có ít nhất hai vương triều, hai nhà Chúa
mà gốc tích là từ Thanh Hóa - người "làm vua" gần đây nhất mà xứ Thanh
có được là ông Lê Khả Phiêu (nguyên TBT BCH Trung ương Đảng CSVN). Văn
thần võ tướng xứ Nghệ bạt ngàn. Bắc sông Lam thiên về võ tướng, nam sông
Lam thiên về văn thần.
Cụ Hồ cũng là người xứ Nghệ.
Trên khắp cõi Việt Nam đâu đâu cũng thấy
mồ tử sỹ Thanh Nghệ. Nghĩa trang Trường Sơn phần lớn là tử sỹ Thanh -
Nghệ. Chiến trường phía Bắc, hồi chống Tàu 1979 - 1984, lính Thanh kiên
cường, quật khởi đánh cho người Tàu bạt vía.
Không phải đương nhiên mà sân Vinh được gọi là cái Chảo lửa. Người Nghệ mang cái bản sắc Choa dân 37 làm nên cả chảo lửa sân Vinh ở ngay Mỹ Đình.
Nhiều nhân vật lẫy lừng của Việt Nam từ
quãng năm 30 trở lại đây có cái gốc chung Thanh Nghệ. Yếu tố lịch sử như
thế vô hình chung khiến người Thanh - Nghệ tự bản thân đã mang cái tính
ương ngạnh, kiêu hãnh và trịch thượng.
Loạn kiêu binh thời Lê mạt cũng bởi binh tướng túc vệ người Thanh Nghệ.
Trong một cơ quan, dù nhỏ mà có hai
người Thanh Hóa ngồi tương đương vị trí thì tất mất đoàn kết. Căn nguyên
rất đơn giản, người Thanh Hóa tính hãnh tiến, có máu làm thủ lĩnh, làm
lãnh đạo và không chịu kém người.
Người xứ Thanh, thân ai làm người ấy chịu, hành xử theo cái kiểu anh cả nhưng cũng thiếu phần bao dung, thiếu hẳn phần khiêm hòa. Người xứ Nghệ thì cố kết cộng động cao, sẩy việc cả nhóm cùng đứng ra gánh vác, người Nghệ phần nào có sự bao dung hơn người xứ Thanh.
Người xứ Thanh, thân ai làm người ấy chịu, hành xử theo cái kiểu anh cả nhưng cũng thiếu phần bao dung, thiếu hẳn phần khiêm hòa. Người xứ Nghệ thì cố kết cộng động cao, sẩy việc cả nhóm cùng đứng ra gánh vác, người Nghệ phần nào có sự bao dung hơn người xứ Thanh.
Nhưng
ngay ở Nam - bắc sông Lam cũng có sự phân cách. Người Nghệ An luôn tự
thị là anh, tính cố chấp, trịch thượng cao hơn hẳn. Người Hà Tĩnh mềm
dẻo hợp thời hơn. Đất chật, người đông, chiến tranh tàn phá, thiên nhiên
không ưu đãi, vô hình chung khiến người Thanh - Nghệ trở nên cần kiệm,
chắt chiu.
Núi sông, thời tiết xung khắc mãnh liệt
khiến người hai xứ này chênh vênh giữa trạng thái tốt và cực đoan. Cần
kiệm thì đến mức chi li bủn xỉn, đoàn kết thì đến mức thái quá. Lại bảo
thủ, ương gàn, chậm thích ứng với cái mới.
Điều tệ hại hơn cả là người Thanh - Nghệ
dường như có máu làm chiến binh, không chịu khuất, không chịu nhún ai
bao giờ. Có doanh nghiệp Hàn Quốc về Nghệ An đầu tư nhà máy may thế mà
lao động đi làm cứ gắn tai phone rồi gật gù (theo tiếng nhạc), chủ xưởng
bảo mãi không chịu bỏ đi. Rồi đó lao động từ Nam về, xin đi làm lại lại
so sánh lương giữa hai chỗ làm rồi nói ở đây trả thấp thế là xúi bãi
công khiến chủ xưởng phát hoảng.
Cả cái nhà máy mấy ngàn công nhân rốt
lại toàn làm chậm tiến độ, hàng đem ra bị trả về. Ông chủ phải dồn 5 nhà
máy ở các KCN phía Bắc lại hỗ trợ mới xong.
Có bận mình ngồi nói chuyện với ông Cao
Văn Vĩnh, Giám đốc sở Văn hóa Nghệ An, ông bảo: "Tình xứ Nghệ quen lâu"
vấn đề là trong thời buổi này bao giờ thì người ta quen được mình. Lâu
quá không được, y như cô gái cứ chờ để về nhà chồng vậy, lâu sinh ra mỏi
mệt". Còn ông Phan Thanh Tịnh, Giám đốc sở Công thương tỉnh thì bảo:
"người mình cần cù chịu khó nhưng lại không khéo, tính người Nghệ cũng
không thuần"
Nói thế để biết rằng người Thanh - Nghệ
có những cái nhược điểm cố hữu của mình. Mà nhược điểm cao nhất là cái
tôi quá lớn cái tôi cả cá nhân và cái tôi của khu biệt văn hóa, ghét bị
sai khiến. Và họ cũng hiểu về điều đó!
Tất nhiên ta có thể hỏi làm thế nào để người Thanh Nghệ bớt bị kỳ thị?
Cần hiểu
Rất khó để ngày một ngày hai, người hai
xứ này bớt đi cái nhược điểm của mình, vậy chỉ còn một cách là phải biết
chấp nhận chính nó. Mà muốn chấp nhận thì phải hiểu đặc tính Thanh
Nghệ. Hò sông Mã cao ngạo, thanh âm như đục thẳng vào lỗ nhĩ. Ví giận
thương trữ tình sâu lắng hai cái đó là cốt cách Thanh Nghệ.
Tất cả phần nổi của đặc tính Thanh -
Nghệ, tất cả những cái xấu của tâm tính người Nghệ An - Thanh Hóa ai
cũng thấy rõ còn cái tốt thì bị khuất lấp, rất khó để tiếp cận.
Thế tính tốt của Thanh Nghệ là gì? Xin
thưa nó cũng nằm một phần trong những mặt xấu của Thanh - Nghệ: tính
cương cường quyết liệt, không chịu nhún nhường. Ở một cơ quan, một doanh
nghiệp mà biết tận dụng và khơi dậy cái đặc tính này, cố kết nó trong
khuôn chung thì rất khó có đối thủ cạnh tranh nào vượt lên được họ. Nói
cách khác doanh nghiệp đó có thể vượt lên mọi khó khăn, trở ngại.
Thứ nứa khi người Nghệ đã tin, đã yêu
thì tất dốc lòng hết sức, tận tụy, nhiệt tâm làm việc. Tính trung thành
là điều không thiếu ở người Nghệ, tính quyết liệt là điều không thiếu ở
người Thanh. Người Nghệ đói no có nhau, anh em sống chết làm việc, không
(hoặc hiếm khi nào) bội phản hoặc chạy theo tiếng gọi của lợi ích riêng
mình mà bỏ rơi cộng đồng.
Dân hai xứ này đều rất khó khăn về mặt
kinh tế, gia cảnh, sự cần cù chịu khó chịu khổ là không thiếu. Nhưng đây
là đất học, người thành danh rất nhiều, nên sử dụng lao động Thanh -
Nghệ - Hà cần phải đặc biệt thấu hiểu văn hóa của họ, trọng thị họ để họ
thấy mình được coi trọng, có chỗ đứng trong doanh nghiệp. Còn ngược lại
chỉ mang lòng kỳ thị thì tất tâm lý đối kháng (ghét giàu, ghét ông chủ)
sẽ có đất để trỗi dậy. Đến lúc đó không có nhiều chỗ cho việc thương
lượng, thấu hiểu lẫn nhau.
Về phía Thanh - Nghệ, cái đào tạo lao
động là khâu yếu khuyết nhất, phần đa lao động đi vào Nam hay ra Bắc đều
từ đồng ruộng mà ra (tính làng xã, tư tưởng tiểu nông vẫn rất cố hữu).
Cả ba tỉnh (Thanh - Nghệ - Hà) đều chưa bao giờ nói những điều mà người
lao động của mình cần và phải hiểu.
Họ có thể đào tạo tay nghề nhưng lại
thiếu hẳn đi đào tạo kỹ năng và cung cách ứng xử. Tức là cứ thả nổi cho
người xứ mình tự bươn chải với đầy đủ tính xấu theo kiểu tự sinh tự
dưỡng. Như thế cũng rất khó cho doanh nghiệp.
Cái chè xanh của xứ Nghệ, hay cả xứ
Thanh cũng vậy với người ngoài, rất chát, rất dẳng nhưng uống lâu sẽ
nghiền vấn đề là phải chịu uống (nghe rất khó) và người bán chè phải
biết cách tiếp thị.