Đúng vào ngày này 34 năm trước
(17.2.1979), Trung Quốc bất ngờ tung hơn 60 vạn quân nổ súng xâm lược
Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía bắc, nhưng đã phải rút
quân sau hơn một tháng gặp sự kháng cự mãnh liệt của quân và dân ta,
chịu nhiều tổn thất nặng nề.
Tuy vậy cuộc chiến tranh xâm lược này
cũng mở màn cho cuộc xung đột vũ trang tại biên giới giữa VN và Trung
Quốc (TQ) kéo dài suốt 10 năm sau đó. Theo thiếu tướng Lê Văn Cương,
nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược - Bộ Công an, với độ lùi về thời
gian, việc nhìn nhận lại cuộc chiến tranh này là hoàn toàn cần thiết.
Kể từ sau khi VN và TQ bình thường
hóa quan hệ (1991), hai bên dường như đều không muốn nhắc lại cuộc chiến
này. Từ hơn 30 năm qua, cuộc chiến chống quân xâm lược Trung Quốc gần
như không được nhắc tới. Theo ông tại sao cuộc chiến lại bị rơi vào lãng
quên như vậy?
Để trả lời câu hỏi này có lẽ cần cả một
hội thảo khoa học. Tôi chỉ xin lưu ý như sau, vào những năm kỷ niệm chẵn
10, 15... hay gần đây nhất là 30 năm sau cuộc chiến tranh chống TQ xâm
lược (2009), báo chí, truyền hình của VN gần như không đưa tin gì về sự
kiện này. Đây là một sự thiếu sót lớn trên góc độ Nhà nước. Hơn thế nữa,
đó là một sự xúc phạm đến linh hồn của những đồng bào, chiến sĩ đã bỏ
mình để bảo vệ Tổ quốc trong cuộc chiến tháng 2.1979 và gần mười năm sau
đó. Họ nằm dưới mộ có yên không? Gia đình vợ con bạn bè và những người
thân thích của họ sẽ nghĩ gì về chuyện này? Đã có ý kiến cho rằng nhắc
đến những chuyện này cũng có nghĩa là kích động chủ nghĩa dân tộc. Tôi
có thể khẳng định rằng nói như vậy là ngụy biện.
Trong khi chúng ta im lặng thì những dịp
đó chúng tôi đã thống kê hệ thống phát thanh, truyền hình báo chí của
TQ tung ra trung bình từ 600-800 tin, bài với những cái tít gần như có
nội dung giống nhau về cái mà họ gọi là “cuộc chiến tranh đánh trả tự vệ
trước VN”. Có thông tin cho rằng hiện tại có tới trên 90% người dân TQ
vẫn quan niệm rằng năm 1979 Quân đội VN đã vượt biên giới sang tấn công
TQ và bắt buộc TQ phải tự vệ đánh trả. Từ hàng chục năm nay, hệ thống
tuyên truyền của TQ đã nhồi nhét vào đầu người dân TQ rằng cuộc chiến
1979 chỉ là cuộc phản công trước sự xâm lược của VN.
Theo tôi nghĩ, trong tuyên truyền đối
nội và đối ngoại, cả ở kênh nhà nước, nhân dân và trên truyền thông,
chúng ta phải làm rõ và góp phần làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ bản
chất của cuộc chiến tranh Việt - Trung 1979. Đồng thời góp phần làm cho
hơn 1,3 tỉ người TQ biết được sự thật rằng vào ngày đó hơn 60 vạn quân
TQ đã vượt biên giới xâm lược VN. Việc chúng ta im lặng hàng chục năm
qua, theo tôi là không đúng. Việc nói ra cũng không liên quan gì chuyện
kích động chủ nghĩa dân tộc. Hãy thử so sánh chuyện đó với việc TQ tung
ra hàng nghìn bài báo xuyên tạc lịch sử từ hàng chục năm qua.
Với độ lùi về thời gian, theo ông
chúng ta có thể rút ra những điều gì từ cuộc chiến tranh này? Những điều
đó có ý nghĩa thế nào trong bối cảnh hiện tại ?
Theo tôi, khoảng thời gian 34 năm đã là
khá đủ cho chúng ta nhận thức lại những vấn đề xung quanh cuộc chiến
1979. Thế nhưng đến giờ phút này tôi có cảm giác không phải lúc nào
chúng ta cũng có được sự nhận thức thống nhất, nhất quán từ trên xuống
dưới.
Vấn đề thứ nhất, phải xác định rõ về mặt
khoa học, cuộc chiến 1979 là cuộc chiến tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ
quốc. Đây là vấn đề phải nhận thức rõ từ cấp cao nhất. Sự nhận thức ấy
cũng phải được thống nhất trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đây là
chuyện không được phép mơ hồ.
Không chỉ nhận thức mà Nhà nước có trách
nhiệm đưa câu chuyện này vào sách giáo khoa. Thực tế cho thấy phần lớn
học sinh tiểu học, trung học và thậm chí đa số trong 1,4 triệu sinh viên
hầu như không biết gì về cuộc chiến tranh này. Nếu để tình trạng này
kéo dài, trách nhiệm thuộc về Nhà nước. Chắc chắn chúng ta sẽ không
tránh được sự phê phán của thế hệ sau này. Hàng vạn người con ưu tú của
chúng ta đã bỏ mình để bảo vệ từng tấc đất biên giới phía bắc của Tổ
quốc, tại sao không có một dòng nào nhắc đến họ? Bây giờ đã quá muộn.
Nhưng không thể để muộn hơn được. Theo quan điểm của tôi, Nhà nước phải
yêu cầu đưa phần này vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Chúng ta
không thể mơ hồ được, không thể lờ đi vấn đề lịch sử này được.
Tôi đã nhiều lần trao đổi với các học
giả nước ngoài và họ đã thắc mắc khá nhiều chuyện tại sao sự kiện chiến
tranh chống quân TQ xâm lược năm 1979 lại không được nhắc đến trong các
giáo trình lịch sử của VN. Tôi đã phải chống chế với lý do rằng người VN
muốn quên đi quá khứ và hướng đến tương lai. Nhiều học giả Hàn Quốc,
Nhật Bản đã phản bác tôi vì “Lịch sử là lịch sử. Quá khứ là quá khứ.
Tương lai là tương lai”. Họ nói rằng: “Chúng tôi biết người VN rất nhân
hậu, muốn hòa hiếu với các dân tộc khác. Nhưng điều này không thể thay
thế cho trang sử chống ngoại xâm này được”.
Thứ hai, trong thế giới hiện đại toàn
cầu hóa, các quốc gia đều phụ thuộc lẫn nhau. Không có quốc gia nào hoàn
toàn độc lập tuyệt đối. Ngay cả Mỹ nhiều lúc cũng phải nhân nhượng các
quốc gia khác. Chúng ta không có quan niệm về độc lập chủ quyền tuyệt
đối trong thời đại toàn cầu hóa. Nhưng trong bối cảnh này, phải nhận
thức rõ cái gì là trường tồn? Theo tôi có 3 thứ là chủ quyền quốc gia, ý
thức dân tộc và lợi ích quốc gia. Ở đây chúng ta phân biệt chủ nghĩa
dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa dân tộc nước lớn với lòng yêu nước chân chính, ý
thức tự tôn tự hào dân tộc. Hai cái đó khác nhau. Người VN có truyền
thống yêu nước, có tinh thần chống ngoại xâm bất khuất, đó là điều cần
được phát huy trong 92 triệu người VN trong và ngoài nước.
Chủ quyền quốc gia, ý thức dân tộc và
lợi ích quốc gia là những cái “dĩ bất biến”, những cái còn lại là “ứng
vạn biến”. Những chuyện “16 chữ”, “bốn tốt” trong quan hệ với TQ là “ứng
vạn biến”. Bài học từ cuộc chiến chống xâm lược năm 1979 cho thấy nếu
không nhận thức được điều này thì rất nguy hiểm.
Thứ ba, trong bối cảnh quốc tế hiện nay,
tiêu chí để phân biệt người yêu nước hiện nay là anh có bảo vệ lợi ích
quốc gia hay không. Trên thế giới này không có bạn bè vĩnh viễn hay kẻ
thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn. Năm nay chúng
ta chuẩn bị tổng kết Nghị quyết T.Ư 8 (7.2003) về chiến lược bảo vệ Tổ
quốc. Tôi thấy có một quan điểm bây giờ vẫn đúng, đó là: "Những ai chủ
trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu
nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của
chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu
của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng
đấu tranh". Đồng thời, cũng phải có cách nhìn biện chứng về đối tượng và
đối tác: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác;
trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của
ta, cần phải đấu tranh.
Tù binh Trung Quốc bị bắt tại Cao Bằng
Nhìn lại từ câu chuyện của 34 năm
trước đến những căng thẳng hiện tại trong vấn đề biển Đông, theo ông có
thể hy vọng gì ở tương lai trong quan hệ giữa VN và TQ ?
Tạo ra lòng tin, sự hữu nghị chân thật
giữa hai nước là con đường tất yếu nhưng đòi hỏi thời gian lâu dài và từ
cả hai phía. Đây không phải là điều có thể hy vọng có được trong vài ba
năm tới đây. Lịch sử mách bảo chúng ta muốn giữ được hòa bình, ổn định,
giữ được độc lập tự chủ thì điều quan trọng nhất là giữ được lòng dân.
Trên dưới một lòng, có được sự đoàn kết dân tộc thì chắc chắn không có
kẻ xâm lược nào dám dại dột động đến chúng ta cả. Lịch sử VN đã cho thấy
những lần mất nước đều bắt đầu từ việc chính quyền mất dân. Năm 179
trước CN An Dương Vương để mất nước là do mất dân. Một ông vua đứng đầu
quốc gia mà tin vào kẻ thù thì chuyện mất nước là không thể tránh khỏi.
Năm 1406, nhà Hồ mất nước cũng vì đã mất dân. Đến mức độ nhà Minh truy
bắt cha con Hồ Quý Ly thì chính những người trong nước đã chỉ điểm cho
quân Minh. Năm 1788 Lê Chiêu Thống sang cầu viện Mãn Thanh đưa 20 vạn
quân sang giày xéo quê cha đất tổ cũng là ông vua đã mất dân. Đó là bài
học muôn đời để bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Ng.Phong
Nguồn TNO
Nguồn TNO