Như chúng ta đã biết Trần Liễu là thân
sinh của Đức Trần Hưng Đạo, vị tướng tài ba lỗi lạc vào bậc nhất trong
lịch sử Việt Nam, người anh hùng đã có công lớn trong các
cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên vào thế kỷ thứ 13. Trần Liễu
có tư thù với người em ruột của mình là vua Trần Thái Tông – Trần Cảnh
mà trước khi chết ông đã trăng trối lại với con là Trần Quốc Tuấn, tức
Trần Hưng Đạo: “Con không vì cha mà lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới
suối vàng cũng không nhắm mắt được.”
Vì
sao Trần Liễu thù hận người em của mình đến chết vẫn không nguôi? Có
phải chính vì mối hận năm xưa, vua Trần Thái Tông – Trần Cảnh đã lấy vợ
của mình là bà Thuận Thiên chăng? Nhưng Trần Liễu cũng biết rằng chuyện
bà Thuận Thiên về làm vợ vua Trần Thái Tông, những người trong cuộc đều
là nạn nhân của sự xếp đặt này, kể cả Trần Liễu lẫn Trần Thái Tông.
Chính vua đã phản đối bằng hành động bỏ cả kinh thành lẫn ngôi vua lên
núi Yên Tử với ý định đi tu kia mà? Hơn nữa, sau khi Trần Liễu dấy quân
chống lại triều đình, chính vua Trần Thái Tông đã đưa mình ra che chở
cho ông để khỏi bị Trần Thủ Độ giết, rồi sau đó hai anh em đã tha thứ
cho nhau. Vậy tại sao Trần Liễu muốn con mình cướp ngôi vua để trả thù?
Thân thế Trần Liễu
Trần Liễu sinh năm 1211, là con của Trần
Thừa (1) và bà Lê Thị (2). Ông là anh lớn trong gia đình tám anh em:
công chúa Thuỵ Bà (3), vua Trần Thái Tông – Trần Cảnh, Trần Nhật Hiệu
(4), Trần Di Ái (5), công chúa Ngoạn Thiềm (6), công chúa Thiên Thành
(7) và người em út là Trần Bá Liệt (8). Về con cái, theo các nguồn sử
liệu thì Trần Liễu có nhiều con nhưng chỉ có 5 người được nhắc đến (9):
Trần Tung (10), Trần Quốc Tuấn (11), Trần Quốc Doãn (12), Trần Quốc
Khang (13) và Trần Thị Thiều (14).
Trong đời mình, Trần Liễu được ban nhiều
chức tước khác nhau. Tước đầu tiên là Phụng Càn vương, Trần Liễu được
ban tước này vì ông lấy công chúa Thuận Thiên con vua Lý Huệ Tông. Đến
năm 1228, ông được phong chức Thái Uý (15). Năm 1234 khi Trần Thừa mất,
Trần Liễu được vua ban tước Hiển Hoàng vương (16), nhưng hai năm sau,
năm 1236 ông bị giáng xuống làm Hoài vương vì dính vào “vụ án thông dâm”
với một cung nhân nhà Lý (17). Sau vụ đem quân chống lại triều đình và
thoát chết năm 1237, Trần Liễu có tước Yên Sinh vương vì ông được cắt
đất phong làm thang ấp ở vùng Ngũ Yên (18), có tên là Yên Phụ, Yên Sinh,
Yên Dưỡng, Yên Hưng, Yên Bang. Sau khi mất, ông được vua ban tước Khâm
Minh Từ Thiện Đại vương.
Sóng gió nổi lên trong hoàng cung
Năm 1237, mặc dù lấy nhau đã 12 năm
nhưng vua Trần Thái Tông và hoàng hậu Chiêu Thánh vẫn chưa có con (19).
Triều đình lo cho hậu vận nhà Trần (20) có thể bị mất ngôi vua như nhà
Lý; do không có con trai nối dõi nên ngôi vua từ nhà Lý rơi vào tay nhà
Trần. Biết công chúa Thuận Thiên là vợ của Trần Liễu đang có mang 3
tháng, Trần Thủ Độ (21) bàn với Trần Thị Dung (22) đưa Thuận Thiên về
làm vợ vua Trần Thái Tông, ép vua lấy chị dâu mình và lập làm hoàng hậu,
phế vợ là hoàng hậu Chiêu Thánh xuống làm công chúa.
Vua Trần Thái Tông phản đối kịch liệt,
nửa đêm cùng với hai cận thần là Trần Thiêm(23) và Trần Khuê Kình (24)
trốn khỏi kinh thành lên núi Yên Tử. Gặp Quốc sư Phù Vân là bạn của
mình, nhà vua bày tỏ ý định muốn nương nhờ cửa Phật. Quốc sư trả lời
rằng :“Trên núi không có Phật, mà Phật ở ngay trong tâm ta”. Quốc sư và
vua đàm đạo về Phật pháp chẳng được bao lâu thì Trần Thủ Độ và quân lính
tìm tới. Thủ Độ cùng mọi người ra sức khuyên vua sớm trở lại cung nhưng
vua không nghe. Thủ Độ cương quyết với nhà vua rằng: “Xa giá ở đâu tức
là triều đình ở đó”, rồi chỉ cho quân lính chỗ xây các cung điện. Sợ mất
sự yên tĩnh nơi tu hành trên núi Yên Tử, Quốc sư Phù Vân khuyên vua trở
lại kinh thành và nhờ vậy vua Trần Thái Tông cùng mọi người quay trở
lại hoàng cung.
Nói về Trần Liễu, vì uất ức bị mất vợ,
ông thừa dịp khi Trần Thủ Độ đưa quân đi tìm vua Trần Thái Tông mà không
lo chuyện phòng bị, liền đưa quân đánh chiếm kinh thành. Nhưng Trần
Liễu không liệu trước được rằng Trần Thủ Độ là người mưu kế và đã sắp
đặt mọi chuyện ở nhà cho các tướng khác. Khi Trần Liễu cùng với quân
lính đang trên đường đến đánh kinh thành thì bị quân triều đình bao vây.
Vì không đủ sức chống lại quân triều
đình và để thoát khỏi cái chết, Trần Liễu nghĩ tới vua Trần Thái Tông,
người em hết mực yêu thương mình, vì chỉ có Trần Thái Tông mới có thể
cứu ông trong lúc này. Trần Liễu đã ngầm cho người hẹn với vua Trần Thái
Tông đúng giờ bơi thuyền ngự ra sông Cái (25) cứu mình. Khi vua Trần
Thái Tông đến, Trần Liễu giả làm người đánh cá đến thuyền vua xin hàng.
Tới khi gặp Trần Thủ Độ, vua Trần Thái Tông lấy thân mình che chở cho
Trần Liễu nên Trần Thủ Độ không làm gì được. Trần Thủ Độ tức lắm nên ném
gươm xuống sông và nói: “Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em
các người thuận nghịch thế nào?”
Đâu là nguyên nhân chính của mối hận này?
Sau khi được vua Trần Thái Tông cứu
thoát chết bên sông Cái, binh lính của Trần Liễu đã bị giết chết (26).
Riêng Trần Liễu, nhờ có thêm sự hoà giải của bà Trần Thị Dung mà ông và
vua Trần Thái Tông đã tha thứ cho nhau và tình cảm anh em trở lại như
xưa, như chính sử đã ghi. Thế nhưng tại sao trước khi chết Trần Liễu
trăng trối với con mình :“Con không vì cha mà lấy được thiên hạ, thì cha
chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được.” Tại sao lại có sự mâu
thuẫn này? Phải chăng có điều gì ẩn khúc bên trong?
Thiết nghĩ, để tình cảm anh em có được
như xưa, phải chăng Trần Thái Tông đã hứa với anh mình rằng, cho dù Trần
Thủ Độ có bắt vợ của anh làm vợ mình, ở trong cung ông vẫn giữ khoảng
cách giữa chị dâu và em chồng? Có lẽ Trần Thái Tông đã hứa với Trần Liễu
là sẽ không phạm tới thân thể của chị dâu nên Trần Liễu mới hứa sẽ tha
thứ và bỏ qua cho vua Trần Thái Tông chăng?
Thế nhưng sau khi hoàng hậu Thuận Thiên sinh Trần Quốc Khang, đứa con mà bà mang thai trước với Trần Liễu, thì bà tiếp tục đẻ thêm những người con khác với vua Trần Thái Tông như Trần Hoảng (27), Trần Quang Khải (28), Trần Nhật Vĩnh (29), và Trần Ích Tắc (30). Phải chăng đây chính là nguyên nhân sâu xa của mối hận này? Có thể đây là nguyên nhân chính làm cho Trần Liễu vẫn còn hận em mình cho đến chết vì ông cho rằng cái lỗi này không còn là lỗi của Trần Thủ Độ nữa mà là do đứa em trai mình, tức vua Trần Thái Tông đã không giữ được tình chị dâu với em chồng như đã hứa với Trần Liễu.
Thế nhưng sau khi hoàng hậu Thuận Thiên sinh Trần Quốc Khang, đứa con mà bà mang thai trước với Trần Liễu, thì bà tiếp tục đẻ thêm những người con khác với vua Trần Thái Tông như Trần Hoảng (27), Trần Quang Khải (28), Trần Nhật Vĩnh (29), và Trần Ích Tắc (30). Phải chăng đây chính là nguyên nhân sâu xa của mối hận này? Có thể đây là nguyên nhân chính làm cho Trần Liễu vẫn còn hận em mình cho đến chết vì ông cho rằng cái lỗi này không còn là lỗi của Trần Thủ Độ nữa mà là do đứa em trai mình, tức vua Trần Thái Tông đã không giữ được tình chị dâu với em chồng như đã hứa với Trần Liễu.
Đinh Ngọc Thu
25-09-2008
25-09-2008
Ghi chú:
(1) Trần Thừa: sinh năm1184, mất ngày
18-1-1134, ông là con của ông Trần Thủ Lý và bà Tô Phương Lan (em gái Tô
Trung Từ). Trần Thừa có hai người em là Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung.
Ông được con là vua Trần Thái Tông tôn làm thượng hoàng mặc dù ông chưa
từng làm vua ngày nào.
(2) Lê Thị: sử sách không nói rõ tên của
bà, chỉ gọi là Lê Thị. Sau khi Trần Cảnh lên ngôi vua, ông tôn bà làm
Quốc Thánh hoàng thái hậu, có sách chép là Bảo Thánh Quốc mẫu. Bà mất
tháng 9 năm 1230, được truy tôn làm Thuận Từ hoàng thái hậu.
(3) Công chúa Thuỵ Bà: chính sử ghi là
công chúa Thuỵ Bà nhưng gia phả Trần tộc viết là công chúa Thúy Ba, có
sách ghi là Thuỵ Ba. Bà là mẹ nuôi của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn.
Khi Trần Liễu và Trần Cảnh xảy ra chuyện, Trần Liễu bị đày đi Ngũ Yên
thì Trần Quốc Tuấn khoảng 7 tuổi. Thương cháu còn nhỏ nên bà xin em là
vua Trần Thái Tông để được nhận Quốc Tuấn làm con nuôi. Lúc đầu tránh sự
soi mói của triều đình nên bà gửi Quốc Tuấn vào chùa Phật Quang nhờ sư
trụ trì dạy dỗ, sau đó đưa trở lại kinh thành để lo cho ăn học.
(4) Trần Nhật Hiệu: em vua Trần Thái
Tông. Năm 1257 khi Nhật Hiệu đang giữ chức Thái uý, thế giặc rất mạnh,
vua Trần Thái Tông hỏi ông nên làm gì, ông đã chấm nước viết lên mạn
thuyền hai chữ “nhập Tống”, có ý khuyên vua nên đi theo Tống.
(5) Trần Di Ái: tức Trần Ải, em vua Trần
Thái Tông. Năm 1281, Trần Di Ái được vua cử làm chánh sứ trong sứ đoàn
đi gặp nhà Nguyên nhưng qua bên đó ông đã nhận sắc phong của vua Nguyên
là Hốt Tất Liệt, phong Di Ái làm An Nam Quốc Vương và cho Sài Xuân (Việt
Nam Sử Lược: Sài Thung) đem một ngàn quân hộ tống về nước. Vì là em vua
nên Di Ái không bị tội chết mà chỉ bị đày đi làm lính ở Thiên Trường.
(6) Công chúa Ngoạn Thiềm: chính sử ghi
là Ngoạn Thiềm như gia phả Trần tộc ghi Ngoạn Thiên. Bà được Trần Thủ Độ
gả cho Nguyễn Nộn (một sứ quân nổi dậy chống lại triều đình) để dò la
tin tức. Nguyễn Nộn biết được nên cho gia tướng canh giữ bà rất kỹ nên
bà không thể báo tin cho triều đình.
(7) Công chúa Thiên Thành: bà là vợ của
Trần Hưng Đạo. Mặc dù là cô cháu nhưng hai người cùng lứa tuổi và cùng
chơi với nhau khi còn nhỏ và lớn lên trong cung nên nảy sinh một mối
tình thầm kín. Tháng 1-1251, vua Trần Thái Tông đem công chúa Thiên
Thành gả cho Trung Thành vương. Trước ngày cưới, công chúa Thiên Thành
được đưa về phủ của Nhân Đạo vương (cha của Trung Thành vương). Nửa đêm,
Trần Quốc Tuấn trèo tường lẻn vào gặp và thông dâm với công chúa. Nhờ
công chúa Thuỵ Bà là mẹ nuôi của Trần Quốc Tuấn gõ cửa kêu vua Trần Thái
Tông đến kịp cứu, nếu không Trần Quốc Tuấn có thể bị gia nhân Nhân Đạo
vương giết mà không bị tội gì.
(8) Trần Bá Liệt: con của Trần Thừa với
người con gái ở thôn Bà Liệt bị ông ruồng bỏ trước đây, sau được Trần
Thừa nhận làm con và năm 1232 được phong tước Hoài Đức vương. Không rõ
tên thật của ông là gì, có người gọi là Trần Bá Liệt hay Bà Liệt, là quê
quán mẹ ông. Gọi là con út vì ông được Trần Thừa nhận làm con sau cùng,
chứ không chắc tuổi tác của ông nhỏ hay lớn hơn những người con khác.
(9) Các con trai của Trần Liễu xếp thứ
tự lớn nhỏ theo tuổi tác như sau: 1. Trần Tung, 2. Trần Quốc Tuấn, 3.
Trần Quốc Doãn. 4. Trần Quốc Khang. Xếp theo con trưởng con thứ: 1. Trần
Quốc Doãn, 2. Trần Quốc Khang, 3. Trần Tung, 4. Trần Quốc Tuấn. Vì Trần
Quốc Doãn là con trai đầu của ông Trần Liễu với bà vợ lớn là công chúa
Thuận Thiên nên Trần Quốc Doãn mặc dù nhỏ tuổi nhưng được phong làm con
trưởng. Sử sách xếp Trần Quốc Khang bên dòng con vua Trần Thái Tông,
nhưng ông chính là con ruột Trần Liễu.
(10) Trần Tung: (1230-1291) ông được vua
Trần Thái Tông ban tước Hưng Ninh vương. Chính sử Việt không nhắc gì
đến Trần Tung, nhưng theo Nguyên sử và các nguồn sử liệu khác thì ông đã
cùng với Hưng Đạo vương đem quân đánh một trận kịch liệt với tướng giặc
Nguyên là Lưu Thế Anh và đuổi Thoát Hoan chạy đến sông Như Nguyệt.
Không biết mẹ ông là ai nhưng có giả thiết cho rằng ông và Trần Quốc
Tuấn cùng mẹ. Trần Tung chính là Tuệ Trung Thượng Sĩ, người đã khai sáng
thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và đã để lại nhiều tác phẩm lớn về thiền
học, văn học và thơ đầu thời Trần. Trần Tung còn được vua Trần Thái Tông
kính trọng và vua Trần Nhân Tông xem ông như bậc thầy.
(11) Trần Quốc Tuấn: tước Hưng Đạo
vương, tức Đức Trần Hưng Đạo, vị anh hùng của dân tộc ta. Ông là con của
Trần Liễu với bà Trần Thị Nguyệt.
(12) Trần Quốc Doãn: được ban tước Vũ
Thành vương. Ông là con của Trần Liễu với công chúa Thuận Thiên. Sau khi
bà Thuận Thiên mất tháng 6-1248 và cha ông là Trần Liễu qua đời ngày
14-4-1251, biết mình thế cô nên tháng 7-1256 ông đã đưa gia thuộc chạy
qua đất Tống nhưng đã bị thổ quan Tư Minh nhà Tống là Hoàng Bính bắt
trao trả cho nhà Trần.
(13) Trần Quốc Khang: ông có tước Tĩnh
Quốc vương. Về danh nghĩa ông là con vua Trần Thái Tông với hoàng hậu
Thuận Thiên nhưng thật ra ông là con của Trần Liễu với bà Thuận Thiên.
Con thứ của Quốc Khang là Chương Hiến hầu Trần Kiện có mâu thuẫn với con
vua Trần Thánh Tông là Tá Thiên vương Trần Đức Việp. Trần Kiện được
lệnh đóng giữ Thanh Hóa nhưng khi Toa Đô tới, Trần Kiện đem gia thuộc
đầu hàng giặc và bị gia tướng của Hưng Đạo vương là Nguyễn Địa Lô (có
sách viết Nguyễn Thế Lộc) bắn chết.
(14) Trần Thị Thiều: bà chính là Thiên
Cảm hoàng hậu, vợ của vua Trần Thánh Tông – Trần Hoảng. Bà là thân mẫu
của vua Trần Nhân Tông, vua thứ ba nhà Trần.
(15) Thái úy: tương đương với chức “Tổng
Tư Lệnh quân đội” ngày nay. Đây là một chức quan đứng đầu trong hàng
tam công: Thái uý, Tư đồ, Tư không. Thời Trần, những chức vụ này thường
được phong cho thân vương, nếu không kiêm chức tước khác thì chỉ để làm
cảnh chứ không can dự vào chính sự.
(16) Có lẽ lúc đó Trần Thừa vừa mất nên vua Trần Thái Tông ban cho Trần Liễu tước này để tỏ lòng tôn kính anh cả của mình.
(17) Vụ án này như sau: tháng 6-1236,
nước ngập tràn vào cung Lệ Thiên. Trần Liễu đi thuyền vào chầu, ngang
qua cung Lệ Thiên thấy một cung phi triều Lý và đã hiếp bà. Có người
nhìn thấy và hặc tấu nên ông bị giáng tước xuống làm Hoài vương. Nhưng
chuyện này cũng có thể là do Trần Thủ Độ tìm cách hạ uy tín của Trần
Liễu trước khi đem vợ ông về làm vợ vua vì theo sử sách ghi lại thì năm
1226 triều đình đưa các cung nhân, con gái trong họ hàng nhà Lý gã cho
các tù trưởng người Man nên không còn cung phi nhà Lý sống trong cung.
(18) Ngũ Yên: là vùng biên giới phía
Đông Bắc nước ta, thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay. Mặc dù Trần Liễu được
cắt đất phong ở đây nhưng thật ra ông “bị đày” đến nơi xa hoàng cung,
một phần là để không phải nhìn thấy cảnh vợ mình làm hoàng hậu và làm vợ
em mình, hơn nữa cũng để tránh cho triều đình không phải lo lắng về
việc Trần Liễu đứng lên chống lại triều đình lần nữa.
(19) Mặc dù vua Trần Thái Tông và bà
hoàng hậu Chiêu Thánh sống với nhau đã 12 năm nhưng lúc đó Chiêu Thánh
mới có 19 tuổi (bà sinh năm 1218) nên không thể nói là hai người sống
với nhau lâu năm mà không con.
(20) Thật ra lúc đó vua Trần Thái Tông
đã có với người thiếp của mình một con trai là Vũ Uy vương Trần Nhật
Duy, nhưng vì Nhật Duy không phải là con của vua với hoàng hậu Chiêu
Thánh, nên không phải cháu ngoại vua Lý Huệ Tông, vì vậy không thể thừa
kế ngôi vua. Vì nhà Trần có được ngôi vua từ tay nhà Lý nên cháu ngoại
của nhà Lý đưa lên ngôi vua mới có chính nghĩa, như Lý Đức Chính con của
vua Lý Thái Tổ với hoàng hậu Tá Quốc, cháu ngoại vua Lê Đại Hành lên
làm vua, tức vua Lý Thái Tông khi nhà Lý lấy ngôi vua từ nhà Lê.
(21) Trần Thủ Độ: là con của Trần Thủ
Huy với công chúa Lý Đoan Nghi. Công chúa Lý Đoan Nghi là con của vua Lý
Anh Tông với bà thần phi Bùi Chiêu Dương, nên Trần Thủ Độ là cháu ngoại
vua Lý Anh Tông.
(22) Trần Thị Dung: là con gái ông Trần
Lý với bà Tô Phương Lan. Trần Thị Dung là em ruột Trần Thừa và Trần Tự
Khánh, bà còn là chị em chú bác với Trần Thủ Độ. Trần Thị Dung là cô
ruột và cũng là mẹ vợ của vua Trần Thái Tông. Khi còn là vợ vua Lý Huệ
Tông bà được phong làm Kiến Vũ hoàng hậu. Đến khi vua Lý Huệ Tông bị ép
đi tu, bà bị giáng xuống làm công chúa Thiên Cực và được gả cho Trần Thủ
Độ. Bà có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ
nhất (1257-1258) và được vua Trần Thái Tông phong là Linh Từ Quốc Mẫu.
(23) Trần Thiêm: là cháu gọi Trần Thủ Độ
bằng bác, có thể Trần Thiêm là con của Trần Thủ Minh, em cùng cha khác
mẹ với Trần Thủ Độ. Trần Thiêm được tuyển vào cung năm 1225 làm Chi Ứng
cục (Chi Hậu cục) cùng đợt với Trần Cảnh (làm Chính Thủ) để hầu hạ Lý
Chiêu Hoàng.
(24) Trần Khuê Kình: ông vừa là bạn, vừa là em họ của vua Trần Thái Tông.
(25) Sông Cái: tức sông Hồng hay Hồng Hà
ngày nay. Nhiều người cho rằng sông Hồng có tên là sông Cái vì người
Pháp đã phiên âm tên gọi sông này là Song-Koï, tiếng Việt đọc thành sông
Cái nhưng không hiểu vì sao dưới thời nhà Trần, trước thời Pháp thuộc
mấy trăm năm mà nó có cái tên này. Sông này được gọi là sông Hồng vì mùa
lũ nước sông có nhiều phù sa nên có màu đỏ ngầu.
(26) Theo GS Trần Đại Sĩ thì Trần Hiến
là người chỉ huy binh lính của Trần Liễu tấn công phủ thái sư Trần Thủ
Độ. Sau khi Trần Liễu đầu hàng, toàn bộ binh lính dưới quyền của ông bị
sát hại trong đó có vợ chồng Trần Hiến – Lê Thị Đạt. Thương cho tướng
của mình bị giết, Trần Liễu đã đem con của hai người là Trần Tử Đức và
Trần Ý Ninh về nuôi. Trần Ý Ninh chính là mẹ của Trần Quốc Toản.
(27) Trần Hoảng: (1240-1291) vừa sinh ra
ông được lập làm thái tử. Sau lên làm vua, tức vua Trần Thánh Tông, vị
vua thứ hai nhà Trần, ông là cha của vua Trần Nhân Tông.
(28) Trần Quang Khải: (1241-1294) ông có
tước Chiêu Minh vương và giữ nhiều chức vụ quan trọng khác nhau trong
đời. Trần Quang Khải là cha của Văn Túc vương Trần Đạo Tái. Trần Đạo Tái
là ông nội quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, Trần Nguyên Đán là ông ngoại của
Nguyễn Trãi.
(29) Trần Nhật Vĩnh: chính sử chỉ nói
ông được sinh ra chứ không nhắc nhiều về ông nhưng theo gia phả Trần tộc
thì ông đã sang hàng giặc sau khi Trần Ích Tắc đưa gia thuộc của mình
đầu hàng nhà Nguyên.
(30) Trần Ích Tắc: có tước Chiêu Quốc
vương. Ông rất thông minh và có mộng làm vua nên khi giặc Nguyên đến,
tháng 3-1285 ông đã đưa con trai là Nghĩa Quốc hầu Trần Dục và gia thuộc
đầu hàng giặc Nguyên. Ông được vua Nguyên phong làm An Nam Quốc Vương.
Có lẽ vì vậy cho nên sử sách không ghi ngày sinh cũng như ngày mất của
ông.
Tài liệu tham khảo:
- “Anh Hùng Đông A Dựng Cờ Bình Mông” của GS Trần Đại Sĩ.
- “Bão táp cung đình” của Hoàng Quốc Hải. NXB Thanh Niên phát hành thánh 12-2005.
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, quyển IV và V: Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên soạn thảo năm 1272 – 1697, do Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam dịch (1985 - 1992).
- Gia phả Trần tộc, do hậu duệ Trần Quang Khải ghi lại.
- Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục – chính biên, quyển V và quyển VI, Quốc Sử Triều Nguyễn, biên soạn năm 1856-1881 và do Viện Sử Học dịch năm1957-1960.
- “Khoá Hư Lục” của Trần Thái Tông viết từ 1258-1277, phần “Thiền Tông Chỉ Nam”
- “Thượng Sĩ Ngữ Lục” của Tuệ Trung Thượng Sĩ, do Trúc Lâm Sư Tổ Trần Nhân Tông biên soạn. Phần 3: “Hành trạng Tuệ Trung Thượng Sĩ.”
- Việt Nam Sử Lược, phần IV: tác giả Trần Trọng Kim.
- Ngoài các nguồn tài liệu kể trên, còn nhiều nguồn tài liệu khác được sử dụng trong bài viết này như: các bài tranh luận trên các Diễn đàn Lịch sử, Diễn đàn Sử học, Diễn đàn Viện Việt học…
- “Bão táp cung đình” của Hoàng Quốc Hải. NXB Thanh Niên phát hành thánh 12-2005.
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, quyển IV và V: Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên soạn thảo năm 1272 – 1697, do Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam dịch (1985 - 1992).
- Gia phả Trần tộc, do hậu duệ Trần Quang Khải ghi lại.
- Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục – chính biên, quyển V và quyển VI, Quốc Sử Triều Nguyễn, biên soạn năm 1856-1881 và do Viện Sử Học dịch năm1957-1960.
- “Khoá Hư Lục” của Trần Thái Tông viết từ 1258-1277, phần “Thiền Tông Chỉ Nam”
- “Thượng Sĩ Ngữ Lục” của Tuệ Trung Thượng Sĩ, do Trúc Lâm Sư Tổ Trần Nhân Tông biên soạn. Phần 3: “Hành trạng Tuệ Trung Thượng Sĩ.”
- Việt Nam Sử Lược, phần IV: tác giả Trần Trọng Kim.
- Ngoài các nguồn tài liệu kể trên, còn nhiều nguồn tài liệu khác được sử dụng trong bài viết này như: các bài tranh luận trên các Diễn đàn Lịch sử, Diễn đàn Sử học, Diễn đàn Viện Việt học…