Trang chủ

     

Thứ Sáu, 4 tháng 12, 2009

THIỀN SƯ KHÔNG LỘ

THIỀN SƯ KHÔNG LỘ
Tức THÁNH TỔ LÝ TRIỀU QUỐC SƯ

     Thiền Sư Không Lộ, người làng Giao Thủy, Huyện Hà Thanh, Tỉnh Nam Định, sinh ngày 14 tháng 9 năm Bính Thìn, 1016 niên hiệu là Thuận Thiên thứ 7, đời Lý Thái Tổ, (1010-1028), sinh quán tại ấp Hầu Lý, huyện Vĩnh Lai, (nay thuộc Phủ Ninh Giang, Tỉnh Hải Dương). Mẹ người họ Nguyễn, Ông họ Dương, húy là Minh Nghiêm, hiệu là Không Lộ. Khi khôn lớn Dương nhi theo nghiệp nhà làm nghề đánh cá, và Bà vợ là người làng Hán Lý, Hải Dương. Hai Ông Bà tính nết trung hậu ham tu thân tích đức và rất sùng đạo Phật, khắp miền ai cũng kính mến.  
     Vốn có chí hải hồ, khi còn thiếu thời, Dương nhi dạo chơi khắp nơi như: Tam Điệp, Thần Phù, Lộng Khê (Thái Bình), Chùa Am làng Lại Trì, thấy cảnh Phật Thanh Tịnh, huyền bí nên đem lòng mến đạo. Năm Giáp Thân, niên hiệu “Thiên Cảm Thánh Vũ” thứ hai 1044, đời Lý Thánh Tông, Ngài 29 tuổi, bỏ nghề đánh cá theo một Đại-sĩ học đạo thiền, kiên trì cần mẫn, học một biết mười, thông minh tuyệt đỉnh, Đạo Sĩ phải khen là pháp tự tuyệt vời.
     Sau đó, Sư (Dương nhi) về trụ trì Chùa Hà Trạch, lấy Pháp Danh là Không Lộ, sớm chiều chuyên tụng niệm kinh “Gia Trì Đà Na Ni Môn”. Ở đây sư kết làm đạo hữu với hai Pháp Sư Nguyễn Giác Hải và Từ Đạo Hạnh, cùng nhau tu pháp môn Thiền Định. Ít lâu sau Sư Đạo Hạnh về tu ở Chùa Thiên Phúc, (nay là núi Sài Sơn, xã Phúc Sài, Tỉnh Sơn Tây) còn hai sư Không Lộ và Giác Hải về Chùa Diên Phúc. Phủ Hải Thanh (nay là xã Hộ Xá, huyện Giao Thủy), cùng chuyên tâm nghiên cứu về đạo Thiền, Phàm Tam Tạng, Ngũ Giới, Sư đều thông suốt.

BÀI THƠ NGÔN HOÀI
言懷
擇得龍蛇地可居,
野情終日樂無餘。
有時直上孤峰頂,
長叫一聲寒太虛。
Nguyên văn:
NGÔN HOÀI
Trạch đắc long xà địa khả cư,
Dã tình chung nhật lạc vô dư.
Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh,
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
Dịch nghĩa:
Chọn được kiểu đất long xà rất hợp, có thể ở được,
Tình quê suốt ngày vui không chán.
Có lúc lên thẳng đỉnh núi bơ vơ,
Kêu dài một tiếng, lạnh cả bầu trời.
Dịch thơ:
TỎ LÒNG
Kiểu đất long xà chọn được nơi
Tình quê nào chán suốt ngày vui
Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng
Một tiếng kêu vang lạnh cả trời.

BÀI THƠ NGƯ NHÀN
漁間

萬里清江萬里天
一村桑稼一村煙
漁翁睡著無人喚
過午惺來雪滿船

Nguyên văn:
NGƯ NHÀN
Vạn lý thanh giang vạn lý thiên
Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên
Ngư ông thụy trước, vô nhân hoán
Quá ngọ tinh lai, tuyết mãn thuyền.

Dịch nghĩa:
CẢNH NHÀN CỦA NGƯ ÔNG
Muôn dặm sông trong muôn dặm trời xanh,
Một làng tang giá một làng khói toả
Ngư ông mê ngủ không ai gọi cả
Quá trưa tỉnh dậy tuyết phủ đầy thuyền.

Dịch thơ:
CẢNH NHÀN CỦA NGƯ ÔNG
Trời xanh nước biếc muôn trùng
Dâu chen khói toả một vùng thôn quê,
Ông chài giấc ngủ đang mê
Quá trưa tỉnh giấc, tuyết che đầy thuyền.