Trang chủ

     

Thứ Bảy, 12 tháng 12, 2009

HỌC VĂN VÀ LÀM VĂN

HỌC VĂN VÀ LÀM VĂN

PHẦN I. NHỮNG BÍ QUYẾT ÔN THI MÔN VĂN ĐẠT HIỆU QUẢ CAO

1. Lựa chọn tài liệu
Tài liệu học tập rất nhiều. Các em cần có sự lựa chọn cân nhắc trước khi mua, trước khi đọc. Điều này có khi vượt quá khả năng của các em. Nên tham khảo ý kiến của các thầy cô giáo bộ môn để có tài liệu ôn tập tốt.
2. Tham khảo đề thi, đáp án, biểu điểm
Các em nên tham khảo đề thi, đáp án, biểu điểm chính thức và dự bị những năm trước của Bộ GD&ĐT. Nó sẽ giúp học sinh có một định hướng rõ ràng hơn trong việc ôn tập và làm bài thi. (Đã có trong chuyên trang này)
Khi đọc những tài liệu này, cần lưu ý đến điểm số dành cho từng ý; tại sao ý này điểm nhiều, ý kia điểm ít; cũng như trình tự sắp xếp các ý, phạm vi dẫn chứng…
3. Không học tủ, nhưng cần có trọng tâm
Có thí sinh cho rằng năm trước, đề thi đã ra vào bài này, phần này, nên năm sau sẽ không rơi vào bài đó nữa. Nhận thức như vậy là chủ quan, vừa sai lầm, vừa thiển cận.
Đề thi môn Văn thường kiểm tra toàn diện kiến thức văn học sử (về giai đoạn văn học 1945 - 1975 và 5 tác giả), cũng như tác phẩm văn học cả trước và sau Cách mạng, cả thơ và văn, thậm chí cả kịch (như chương trình phân ban), đồng thời kiểm tra toàn diện các kĩ năng tóm tắt, bình giảng, phân tích, so sánh, giải thích, chứng minh...
Vì vậy, các em nên cố gắng ôn tập đều ở tất cả các phần, các bài trong chương trình thi, không nên học tủ. Tuy vậy, các em vẫn nên ôn tập có trọng tâm, trọng điểm. Cần bám sát chương trình của Bộ và sách giáo khoa, vì đó là văn bản pháp quy của nhà nước, mà đề thi không được nằm ngoài. Lưu ý rằng tất cả những gì có trong sách giáo khoa đều có thể thi.
4. Khám phá tác phẩm trong các mối liên hệ
a. Các mối liên hệ bên ngoài:
Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của nhà văn, nhưng cũng là con đẻ của hoàn cảnh lịch sử, thời đại, là nơi ghi dấu ấn tâm hồn, tư tưởng, tài năng và tâm huyết nhà văn trong một thời điểm nhất định. Muốn nắm bắt, cần phải biết tác phẩm đó gắn liền với hoàn cảnh lịch sử nào. Vì vậy, các em cần:
- Nắm chắc hoàn cảnh ra đời, ý nghĩa nhan đề và kết cấu cảm hứng để hiểu sâu và chính xác về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật tác phẩm, đồng thời qua tác phẩm phải thấy được cả hiện thực thời đại mà nhà văn sống và sáng tác.
- Tránh xu hướng xã hội học dung tục, chỉ tìm thấy ở văn chương những ý nghĩa xã hội và đạo đức. Chẳng hạn, không nên hiểu dòng thơ “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc”(Chiều tối - Hồ Chí Minh) là “tố cáo chế độ Quốc dân đảng bóc lột sức lao động của trẻ em”, hoặc dòng thơ “Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san” (Giải đi sớm - Hồ Chí Minh ) là “nhân dân ủng hộ lãnh tụ” hay “bọn lính áp giải vây quanh người tù cô đơn nơi đất khách” như có người từng hiểu…
- Đặt TP trong mối liên hệ với quan điểm sáng tác, tư tưởng và phong cách nghệ thuật của nhà văn để hiểu sâu sắc và chính xác về tác phẩm. Chỉ khi liên hệ với quan niệm về người tài của Nguyễn Tuân, mới hiểu được tại sao Huấn Cao và ông lái đò sông Đà lại được nhà văn ngợi ca là những người tài hoa, nghệ sĩ hơn đời.
- Đặt TP trong mối liên hệ mật thiết với giai đoạn văn học, trào lưu văn học, thời kì hoặc phương pháp sáng tác. Chẳng hạn, khi tìm hiểu các bài thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử và Thâm Tâm, cần đặt chúng trong đặc điểm tư tưởng nghệ thuật của phong trào Thơ Mới lãng mạn 1932 - 1945.
b. Các mối liên hệ bên trong:
Mỗi tác phẩm văn chương thường có hai phần nổi bật: nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Hai phần này thường thống nhất với nhau. Tìm hiểu nội dung là nhằm chỉ ra tư tưởng và quan niệm của nhà văn về con người và cuộc sống, tìm hiểu hình thức là để chỉ ra tài năng nghệ thuật của nhà văn, cũng như sự thống nhất và phù hợp của hình thức với nội dung. Nên từ hình thức tìm ra nội dung và tránh diễn xuôi tác phẩm, văn thơ.
Thế giới nghệ thuật của tác phẩm là thế giới hình tượng do nhà văn sáng tạo ra, có quy luật riêng, thang bậc giá trị riêng, thời gian và không gian nghệ thuật riêng.
Vì vậy khi tìm hiểu tác phẩm, không được đồng nhất nó với thế giới thực tại ngoài đời, ngay cả khi nhân vật được xây dựng từ một nguyên mẫu có thật như Hoàng đế An Nam trong “Vi hành”, Hoàng trong “Đôi mắt”, Đào trong “Mùa lạc”, Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”…
Tìm hiểu tác phẩm phải luôn xuất phát từ chi tiết. Vì vậy, về văn xuôi, nhất định phải nắm được diễn biến câu chuyện, cách kể và giọng điệu của nhà văn, nhân vật trung tâm và những chi tiết, sự kiện xoay quanh nhân vật trung tâm đó. Về thơ, phải nắm được cảm hứng chủ đạo của nhà thơ, kết cấu cảm hứng của bài thơ, đoạn thơ, những chi tiết, hình ảnh mà nhà thơ sử dụng để bộc lộ cảm xúc. Về kịch, phải nắm được những mâu thuẫn, xung đột, các lời thoại quan trong…Từ các chi tiết nghệ thuật ấy, tìm ra tư tưởng và tình cảm mà nhà văn gửi gắm cũng như tài năng nghệ thuật của nhà văn.
5. Rèn luyện khả năng tư duy khái quát, tổng hợp, tái hiện
Một trong những điểm yếu của học sinh hiên nay là khả năng khái quát, tổng hợp, tái hiện còn hạn chế dẫn đến bài làm thường không đủ ý, lệch lạc đề, kết quả không cao.
Muốn khắc phục nhược điểm trên, khi học văn, các em cần tránh cách học máy móc, học vẹt, mà nên học theo ý (theo luận điểm). Đọc một bài tham khảo, phải biết khái quát thành ý lớn, ý nhỏ (tức là cái dàn ý của bài ). Các em thường hay làm ngược lại: chỉ biết nêu nội dung chi tiết để minh hoạ chứ không gọi tên được cái ý cần nêu ra.
Học theo ý, mới có thể dễ nhớ, nhớ lâu và sâu sắc. Khi làm bài, các em nên diễn đạt lại những ý đó theo cách của mình. Những bài văn mẫu, những bài giảng các thầy, các cô cho ghi, dù hay đến đâu, cũng chỉ nên coi như 1 tài liệu tham khảo cách diễn đạt. hoặc xem lại ý khi quên.
Nói như người xưa, ý là“bột”, bài văn là“hồ”, còn quá trình diễn đạt ý thành bài là “gột”. “Có bột mới gột nên hồ”. Cho nên học văn không phải là cắm đầu ghi cho đầy vở, mà là phải hiểu, nhớ và ghi lại các ý hay, các luận điểm quan trọng.
Gặp những vấn đề chưa hiểu, các em cứ mạnh dạn hỏi, chắc chắn không thầy cô nào từ chối, dù họ có bận và mệt đến đâu.
Kiến thức càng sắp xếp khoa học, chặt chẽ, rành mạch bao nhiêu, càng dễ nhớ bấy nhiêu. Để tránh học vẹt, khi học văn, các em không nên cầm sách học thuộc lòng, mà nên học theo phương pháp tái hiện.
Sau giờ học trên lớp, hãy dành thời gian tĩnh tâm (khoảng 20 - 30 phút) để nhớ lại kiến thức vừa học, nhất là hệ thống ý lớn, ý nhỏ. Sau đó mới mở sách ra kiểm tra lại. ý nào mình chưa nhớ được thì cần phải học ngay.
Để kiểm tra kiến thức và tự đánh giá năng lực của mình, cách tốt nhất là là bài tâp. Các em chọn bất cứ đề thi tuyển sinh nào, tự đặt mình như đang trong phòng thi, bấm thời gian và làm bài một cách nghiêm túc.

PHẦN II. CÁCH LÀM BÀI VĂN ĐẠT KẾT QUẢ CAO

1. Nắm vững cấu trúc và mức độ của đề thi
Đề thi tuyển sinh (đề chung) vào các trường đại học và cao đẳng môn văn, theo lộ trình đổi mới giáo dục và cải tiến thi cử, đánh giá của Bộ GD&ĐT, về cơ bản, có kết cấu gồm 2 phần với 3 câu hỏi.
Phần chung cho tất cả thí sinh, gồm câu I kiểm tra kiến thức về giai đoạn văn học, tác giả, tác phẩm và câu II vận dụng kiến thức đời sống xã hội viết bài nghị luận xã hội ngắn(không quá 400 từ). Phần riêng gồm câu IIIa theo chương trình chuẩn và câu IIIb theo chương trình nâng cao.
a. Câu I, 2 điểm, nhằm kiểm tra kiến thức cơ bản, phổ thông và khái quát nhất như:
- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt những đặc điểm chính về con người, cuộc đời của một nhà văn.
- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt sự nghiệp văn học của một tác giả.
- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt quan điểm sáng tác văn học (quan điểm nghệ thuật) của một tác giả (chỉ có ở 2 tác giả Nam Cao và Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh).
- Trình bày những nét chính trong phong cách nghệ thuật của một tác giả (chỉ có ở 3 tác giả Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Nguyễn Tuân và Tố Hữu).
- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt hoàn cảnh ra đời của một tác phẩm.
- Giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm.
- Khái quát ngắn gọn giá trị tư tưởng nghệ thuật, nhất là giá trị nhân đạo, của một tác phẩm.
- Nêu hoặc phân tích ngắn gọn nhưng đặc điểm và thành tựu chính của giai đoạn văn học 1945 - 1975.
b. Câu II, 3 điểm, vận dụng kiến thức đời sống xã hội viết bài nghị luận xã hội ngắn:
- Nghị luận về một tư tưởng đạo lí
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống
c. Câu IIIa và IIIb, 5 điểm, nhằm kiểm tra năng lực cảm thụ thơ, phân tích hoặc bình giảng 1 khổ hoặc 1 đoạn thơ ngắn.
2. Xác định đầy đủ, chính xác yêu cầu của đề
Trước khi làm bài, các em cần đọc kĩ đề và xác định đầy đủ yêu cầu của đề thi về các phương diện như kiểu bài: xác định xem đề bài yêu cầu sử dụng kĩ năng nghị luận nào: trình bày, giải thích, chứng minh, bình giảng, phân tích, so sánh hay kiểu bài tổng hợp đòi hỏi kết hợp nhiều kĩ năng nghị luận.
Đối tượng và nội dung nghị luận: Đề bài yêu cầu giải quyết vấn đề gì?;
Phạm vi kiến thức và dẫn chứng: Để giải quyết vấn đề đó, cần huy động và sử dụng những kiến thức và dẫn chứng nào cho phù hợp và có sức thuyết phục cao nhất); đồng thời, các em xác định nội dung và hình thức trình bày bài viết. Điều này sẽ giúp bài văn không bị lạc đề, xa đề.
3. Vận dụng chính xác, linh hoạt, nhuần nhuyễn các kiểu bài, các kĩ năng và thao tác nghị luận
Để bài văn đạt kết quả cao, cần vận dụng chính xác, linh hoạt, nhuần nhuyễn các kiểu bài, các kĩ năng và thao tác nghị luận. Các em nên tập trung rèn luyện năng lực khái quát, tóm tắt 1 vấn đề văn học, năng lực cảm thụ văn học và các kiểu bài so sánh, phân tích, bình giảng văn học (nhất là phân tích văn xuôi và bình giảng thơ).
Đây là những kiểu bài thể hiện chất văn chương rõ nét nhất, và thường hay thi nhiều nhất:
* Kiểu bài trình bày tóm tắt một vấn đề hoặc tác phẩm văn học đòi hỏi các em phải đọc, phải nhớ nội dung cơ bản của tác phẩm hay vấn đề VH.
* Phân tích văn học là kiểu bài nghị luận đem một hiện tượng văn học (tác phẩm, vấn đề) chia nhỏ ra thành từng bộ phận hay phương diện để xem xét từng phần rồi đem kết quả tổng hợp lại trong một kết luận chung.
Phân tích văn học là chỉ ra các giá trị nội dung, nghệ thuật qua các chi tiết cụ thể. Không cần và không thể phân tích mọi chi tiết. Chỉ cần chọn phân tích những chi tiết tiêu biểu nhất, nói lên tư tưởng quan trọng của nhà văn, phù hợp với chủ đề phân tích của đề bài.
Các kiểu bài phân tích văn học thường có trong đề thi là: Phân tích tác phẩm hoặc một đoạn tác phẩm, phân tích hình tượng nhân vật, phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật, phân tích các vấn đề văn học, phân tích chi tiết nghệ thuật và nhan đề tác phẩm.
* Bình giảng văn học (đề thi thường chỉ yêu cầu bình giảng thơ): là giảng giải, đánh giá, bình phẩm về nghĩa lí, ý tứ của bài văn, lời văn, giúp cho người đọc cảm thụ và đánh giá tác phẩm văn học một cách toàn vẹn.
Bình giảng văn học chỉ khám phá những điểm nút, những từ ngữ chìa khoá, những thi nhãn, những mạch ngầm để mở đường thưởng thức văn bản, chứ không che lấp hay thay thế văn bản nghệ thuật.
Khi bình giảng, cần chú ý tới những chỗ trống, chỗ lạ hoá, khác thường trong văn bản, đặc biệt là cách cấu tạo hình tượng, các chi tiết giàu ý nghĩa, các từ ngữ dùng đắt hoặc kết hợp đặc biệt.
Từ chỗ độc đáo đặc thù đó, tìm đến mạch lạc bên trong của bài thơ, bài văn, khám phá mối liên hệ không gian, thời gian, cách cảm nhận riêng của tác giả cũng như cấu tứ, bố cục của tác phẩm.
Khi bình giảng thơ, để hệ thống ý của bài văn được chặt chẽ, điều quan trọng nhất là phải hiện ra cấu trúc của đoạn thơ, bài thơ. Đối với các bài thơ, đoạn thơ có sử dụng hình thức lặp cấu trúc, liệt kê, điệp từ như Tâm tư trong tù, Việt Bắc, Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm thì khi bình giảng, để tránh bài viết lặp lại một cách nhàm chán, tuyệt đối không được bình từng dòng, mà phải nhóm các chi tiết, hình ảnh thành một hệ thống, rồi mới giảng và bình về hệ thống ấy.
4. Mở bài và kết bài nhanh, ngắn
Đã là bài văn, dù dài hay ngắn, đều phải có mở và kết bài. Cần tập trung rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài để có thể mở bài thật nhanh, kết bài thật ấn tượng.
Nên mở và kết bài ngắn, tránh dài như bài làm văn học sinh giỏi, để giành thời gian cho phần chính.
Trong một bài thi đại học, với đề 3 câu, các em cần phải viết đủ 3 mở bài, 3 kết bài. Ở câu 2 điểm, nên mở và kết bài khoảng 2 - 3 dòng; câu 5 điểm, nên mở và kết khoảng 5 - 7 dòng; câu 3 điểm, nên mở và kết khoảng 3 - 4 dòng. Mỗi câu, nên mở và kết bài theo một cách riêng.
Có nhiều cách mở, cách mở bài gián tiếp hay nhưng thường khó mất nhiều thời gian đối với đa số các em. Cách mở bài trực tiếp đơn giản nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu của bài văn. Nên nhớ là các em đi thi tuyển sinh, đạt điểm cao để đậu là mục đích lớn nhất, nó khác với một cuộc thi để chọn học sinh giỏi văn. Kết bài cũng nên ngắn gọn, khái quát được vấn đề mà mình đã nêu ra.
Quan trọng nhất là mở bài phải bám sát được yêu cầu của đề, giới hạn được nội dung và phạm vi của vấn đề cần giải quyết. Do đó, một mở bài đạt yêu cầu khi nêu được hai điểm cơ bản là giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích…và ý dẫn dắt vào vấn đề chính cần giải quyết ở thân bài.
5. Tìm ý (luận điểm) nhanh, đúng, đủ và sắp xếp triển khai ý hợp lý
Bài văn hay, đạt điểm cao, thậm chí điểm tuyệt đối là bài văn có một hệ thống ý đầy đủ, sáng tạo, chặt chẽ, đáp ứng toàn diện yêu cầu của đề, được thể hiện qua một hình thức trình bày và diễn đạt chính xác, trong sáng, rõ ràng, tinh tế, khéo léo, có hình ảnh và cảm xúc.
Các giám khảo chấm văn cũng phải so sánh giữa hệ thống ý của bài văn và hệ thống ý mà Bộ đề ra trong đáp án và biểu điểm chấm thi để cho điểm. Vì vậy, khi giải quyết một đề văn, điều quan trọng nhất là phải tìm ra ý. Các em nên xuất phát từ chi tiết nghệ thuật để phân tích hệ thống hình tượng và thế giới nghệ thuật của tác phẩm, từ đó tìm ra ý (luận điểm) theo yêu cầu của đề bài.
Để tìm ra ý cần dựa vào yêu cầu của đề bài, kết hợp với kiến thức mà các em đã học, hoặc đã đọc. Sau khi đã tìm ra các ý, cần xác định xem ý nào là ý chính, ý nào là ý phụ, gọi tên nó ra; sắp xếp ý theo một trình tự hợp lí và có ý nghĩa nhất. Trong thực tế, các em thường khó xác định được ý, nhầm lẫn ý với chi tiết, dẫn chứng do năng lực tư duy khái quát, tổng hợp còn hạn chế.
6. Tư duy sâu sắc, cảm nhận tinh tế
- Tư duy trong bài văn phải rành mạch, trong sáng, chính xác, rõ ràng, tránh lan man dây cà ra dây muống (thể hiện ở cách triển khai hệ thống ý và cách kết cấu bài viết).
Tư duy phải sắc sảo, thông minh. Để bài văn đạt kết quả cao, rất cần người viết khẳng định được bản lĩnh riêng, cá tính riêng, giọng điệu riêng của mình trước vấn đề mà đề bài yêu cầu giải quyết.
- Người viết phải tỏ ra nhạy cảm, sâu sắc và tinh tế trong năng lực cảm nhận văn chương. Hãy cảm nhận mỗi chi tiết, hình ảnh, ngôn từ của tác phẩm bằng tất cả trí tuệ, tình cảm, sự say mê và niềm tâm huyết của mình.
Khi làm văn, tuyệt đối không nên sao chép.
7. Tăng cường tính chính xác và tư duy khoa học
Văn học là một môn khoa học về nghệ thuật ngôn từ. Vì vậy, cần kết hợp vừa tăng cường chất văn vừa tăng cường tính chính xác trong bài văn, nhất là trong việc trích dẫn kiến thức và dẫn chứng.
Bên cạnh đó, việc hiểu rõ, nắm vững và sử dụng chính xác các khái niệm, các thuật ngữ văn học cũng giúp tăng cường tính chính xác của bài văn. Các em không nên sử dụng khái niệm, nếu như chưa hiểu rõ về nó.
Các em cần hiểu, phân biệt, và sử dụng chính xác các khái niệm: nhân đạo, nhân văn, nhân bản, nhân ái. Các em nên tìm hiểu, nắm vững và sử dụng thành thạo thêm các khái niệm: lãng mạn, hiện thực, tính dân tộc, tình huống truyện, thể thơ lục bát, hình thức lẩy “Kiều”, lối thơ vắt dòng, giọng điệu văn chương, nhân vật trữ tình, tính sử thi..., cũng như phân biệt chính xác giữa tác giả lời nói với chủ thể lời nói, cảm hứng sáng tác và cảm hứng tư tưởng, nhân vật trữ tình và nhân vật trong thơ trữ tình…
8. Xây dựng đoạn văn chặt chẽ và chuyển ý khéo léo
Mỗi ý lớn cần được triển khai thành nhiều ý nhỏ, có phân tích, giảng giải, chứng minh, và được tổ chức thành một đoạn văn, sao cho khi các đoạn văn kết hợp với nhau sẽ tạo thành một bài viết hoàn chỉnh, đáp ứng toàn diện yêu cầu của đề bài.
Luyện kĩ năng viết đoạn văn dưới nhiều hình thức như quy nạp, diễn dịch, tổng - phân - hợp… Sự kết hợp luân phiên của các đoạn văn với các hình thức khác nhau như thế, sẽ tránh cho bài văn khỏi sự lặp lại nhàm chán, đơn điệu.
Khi hết một ý, chuyển sang ý khác, cần có câu chuyển ý (chuyển đoạn). Câu chuyển ý rất quan trọng, đảm bảo cho ý văn liền mạch, thống nhất và nhuần nhuyễn, giống như các khớp xương nối các phần cơ thể với nhau.
Câu chuyển ý có chức năng khép lại ý đã viết xong và mở ra một ý mới, nên cần diễn đạt khéo léo.
9. Dẫn chứng hợp lý, bình dẫn chứng tinh tế
Bài văn đạt điểm cao không chỉ cần đủ ý, với các đoạn văn được xây dựng chặt chẽ, diễn đạt khéo léo…, mà còn cần có các dẫn chứng được trích dẫn chính xác, tiêu biểu, có chọn lọc, giàu sức thuyết phục, góp phần làm sáng tỏ và nổi bật hơn hệ thống ý của bài văn… Cũng không nên lạm dụng dẫn chứng, mà phải sử dụng một cách hợp lý, có chừng mực, tránh liệt kê một cách máy móc.
Trước khi nêu dẫn chứng, cần có lời dẫn, nghĩa là một lời giới thiệu khéo léo về dẫn chứng. Lời dẫn này nên kết hợp với lời bình, với cảm nhận của các em về dẫn chứng, để làm nổi bật ý của bài văn.
10. Tuân thủ nghiêm các nguyên tắc xây dựng và trình bày văn bản
Bài văn phải được trình bày sáng sủa, sạch đẹp. Vì vậy, trong quá trình triển khai ý làm bài, các em nên trình bày mỗi ý thành một đoạn văn, được phân biệt với nhau bởi các dấu chấm xuống dòng, và viết thụt đầu đoạn. Cách trình bày như thế vừa giúp bài văn sạch đẹp hơn, gây được thiện cảm của người chấm, các ý trong bài nổi bật hơn, người chấm không thể bỏ sót ý, nên bài văn có lợi hơn về điểm số.
Diễn đạt là quá trình vô cùng quan trọng, sánh ngang với việc tìm ý cho bài văn. Không có ý, thì không có gì để viết, nhưng có ý đầy trong đầu, mà không biết cách nói ra, thì ý dù hay và sâu sắc đến đâu cũng trở nên vô nghĩa. Diễn đạt là quá trình “gột” để “bột” thành “hồ”, quá trình làm cho những ý tưởng trừu tượng, lớn lao biến thành lời văn cụ thể, tràn đầy hình ảnh và cảm xúc, nghĩa là biến bộ xương ý tưởng thành một cơ thể sống động, có da có thịt ,có sự sống, có linh hồn.
Cố gắng không viết sai chính tả, viết câu văn què cụt, không có chủ ngữ, vị ngữ, hoặc nhầm lẫn giữa các thành phần câu, nghĩa là chưa nói thông viết thạo tiếng Việt. Đây là lỗi thường bị trừ điểm rất nặng trong các bài văn.
Tránh lối diễn đạt mập mờ, hoặc suy diễn dễ gây hiểu nhầm cho người đọc.
Khi đã diễn đạt đúng, mới tiến dần lên tập luyện để diễn đạt hay hơn, khéo léo, tinh tế hơn. Để diễn đạt hay, cần sử dụng linh hoạt các kiểu câu khi diễn đạt, sử dụng linh hoạt các hình ảnh, các phép tu từ, chuyển nghĩa để lời văn có cảm xúc và chất văn. Lời văn phải trau chuốt, uyển chuyển, có giọng điệu riêng. Nhiều khi chỉ thay đi vài chữ là câu văn đã hay hơn, sâu sắc hơn. Một câu văn hay phải có thêm các thành phần phụ (trạng ngữ, bổ ngữ, định ngữ…)
Ví dụ, thay cho cách diễn đạt “Sức sống của Mị hồi sinh mạnh mẽ khi mùa xuân đến”, hãy tìm một cách diễn đạt có hình ảnh và cảm xúc hơn, chẳng hạn “Như một mầm cây ngủ quên lâu ngày trong đất, gặp hơi ấm của mùa xuân, sức sống nơi tâm hồn Mị bỗng cựa mình tỉnh giấc và vươn mình trỗi dậy”.
Chữ viết đẹp, rành mạch, sáng sủa, đúng chuẩn mực chính tả cũng là một lợi thế để bài văn có điểm cao hơn.
11. Phân bố thời gian làm bài hợp lý, tăng tốc độ viết
Căn cứ vào số điểm của mỗi câu mà ta xác định thời lượng làm bài thích hợp. Câu I thường 2 điểm, chỉ được làm trong khoảng thời gian tối đa 30 phút, câu II, thường 3 điểm, làm trong khoảng thời gian 60 phút, câu IIIa và IIIb, thường 5 điểm làm trong khoảng thời gian 90 phút. Mở bài, kết bài cho từng câu trong khoảng thời gian từ 5 - 7 phút.
Để đảm bảo thời gian và bài làm đúng hướng, nên vạch ra các ý chính bằng các gạch đầu dòng, sắp xếp các ý cho chặt chẽ, rồi lựa chọn cách diễn đạt, sau đó mới viết thành lời văn vào giấy thi.
Nên dành khoảng 4 - 5 phút cuối cùng của 180 phút làm bài thi, để đọc lại bài làm, rà soát các lỗi sai, nhất là lỗi chính tả, lỗi ngữ pháp...
Cách luyện tập tốt nhất là lấy 1 đề văn thi đại học bất kì, trung thực và nghiêm túc làm bài trong 180 phút, không dùng bất cứ tài liệu nào, tự kiểm tra xem khả năng làm bài và tốc độ viết của mình đến đâu để có phương án điều chỉnh.
NDX